Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất Nước do ai làm nên? "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu. Bạn đang xem: Phân Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng 1. Mở bài Trong sự cảm nhận về đất nước của các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ, tư tưởng về nhân dân là vấn đề cốt lõi. Đất nước là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong một cái Dàn ý phân tích Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Bài văn mẫu hay nhất nghiên cứu và phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm; Phân tích Đất nước đầy đủ nhất. Bài văn mẫu 1; Bài văn mẫu 2; Bài văn mẫu 3; Bài văn mẫu 4; Phân tích Đất nước ngắn gọn. Bài làm Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp lý. Đây là một bài phân tích với cấu trúc quy nạp. 3. Tóm tắt toàn diện. Điều này thực sự thể hiện tấm lòng của anh ấy đối với đất nước. b. Tương phản. Đoạn văn tương phản là đoạn văn có những ý tưởng tương phản, đối lập nhau: hình tượng thơ, phong cách r3ji9ti. Tác giả và tác phẩm? Dàn ý phân tích đoạn 2? Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước?Chương trình lớp 12 rất nặng với nhiều kiến thức phức tạp. Ngữ văn là một trong những môn bắt buộc trong kì thi THPTQG, tuy nhiên khối lượng kiến thức rất nhiều. Vì vậy, bài viết dưới đây sẽ giúp các em ôn tập thêm về bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, rất mong bài viết sẽ hữu ích đối với các em. Mục lục bài viết 1 1. Tác giả và tác phẩm 2 2. Dàn ý phân tích đoạn 2 3 3. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 4 4. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 5 5. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 1. Tác giả và tác phẩm Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại làng Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế; Ông sinh ra tại thôn An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng. Nguyễn Khoa Điềm học tập và trưởng thành ở miền Bắc, chiến đấu và học tập ở miền Nam. Thơ của ông mang màu sắc chính luận sâu sắc, cảm xúc suy tư dồn nét, với một số tác phẩm tiêu biểu như sau – Đất ngoại ô thơ, 1973; – Cửa thép ký, 1972; – Mặt đường khát vọng trường ca, 1974; – Ngôi nhà có ngọn lửa ấm thơ, 1986; – Thơ Nguyễn Khoa Điềm thơ, 1990; Bài thơ Đất nước là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm, bài thơ được sáng tác năm 1971 ở chiến khu Bình Trị Thiên. Bài thơ như dấu mốc đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân vùng tạm chiếm, đồng thời là lời ca về tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Mở bài Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm. Thân bài Ví trí đoạn trích Sau khi cảm nhận đất nước qua nhiều phương diện của lích sử, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến câu trả lời ngắn gọn và làm thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân ta “Đất nước trong nhân dân là gì?” – Vạn vật của đất nước không chỉ do tự nhiên tạo ra mà những phẩm chất tốt đẹp là một phần máu thịt của con người. – Tình yêu thủy chung son sắc mà ta có “hòn Trống” “hòn Mái” – Nhờ truyền thống hiếu học mà ta có “núi Bút” và “núi nghiên” – Nhờ có tình yêu quê hương đất nước, tinh thần bất khuất, dũng cảm mà chúng ta mới có những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước. – Con người làm nên 4000 năm lịch sử + Họ là những người dân là những người con trai con gái họ có tình yêu quê hương đất nước + Tác giả nhấn mạnh sự hi sinh của những người vô danh cống hiến cả tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước để bảo vệ thế hệ mai sau. + Nhân dân tạo ra những giá trị vật chất giá trị tinh thần văn hóa; “Truyền lửa”, “Truyền giọng nói”…. + Đoạn trích ” Đất nước” là một cái nhìn mới mẻ về bình diện lịch sử, văn hóa , địa lí dựa trên những cơ sở cốt lõi – Sử dụng sáng tạo chất liệu dân gian ngôn ngữ giàu chất triết lí Kết bài Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. 3. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Nếu như ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, cắt nghĩa sự hình thành của Đất Nước thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng địa lý. không gian, chiều dài thời gian lịch sử, và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân. “Đất là nơi em đi học Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi tôi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ Mảnh đất nơi “phượng hoàng bay về núi bạc” Mặt nước là nơi “móng vuốt của ngư dân nước biển” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt trong cách dùng từ, đặt câu khi ở đây, nhà thơ trích ra hai chữ Đất Nước để phân tích tâm hồn ẩn sâu bên trong nó. Đất là nơi em đi học, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ra đất nước còn là không gian thân thương, nơi gắn bó tình cảm, nơi khơi nguồn và khơi nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ký ức gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất nước không chỉ đánh thức kí ức tuổi thơ mà còn đánh thức kí ức văn hoá cộng đồng, nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng. “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Đất nước là sự rèn giũa, kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ là gợi lại những ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi nhớ những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trường tồn, Đất Nước vẫn bất tử giữa không gian bao la, không gian hùng vĩ. Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ sau. “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn đó là sự tích tụ, tiếp nối của biết bao thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vĩ đại, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, đồng bào các dân tộc luôn tự nhắc mình đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống Hằng năm nhớ ngày giỗ Tổ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Trong anh và em, trong mỗi chúng ta đều thấm đượm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân và cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái mộc mạc gần gũi và cái xa vời vợi. Từ đó, bắc một nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và ở mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại gửi gắm vào đó linh hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia kháng chiến kiến quốc, soi sáng, hướng dẫn họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, nghẹn ngào yêu thương, như lời nhắn nhủ chân thành, như lời chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận rõ hơn về sự hòa hợp, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, bởi nó được xây dựng và gìn giữ bằng chính cuộc đời và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống và hy sinh. Và cũng bởi Đất nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa về truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn độc, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự phát triển và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào chúng ta trở nên vô minh. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu xa nhất mà Đất Nước có tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng chính là sự sáng tạo tinh thần của mỗi chúng ta. Khổ thơ thứ hai thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn làm tăng sức nặng của những triết lí, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu sắc. 4. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ trữ tình, cảm xúc thiết tha, suy tư sâu sắc. Sử thi “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích giáo dục thanh niên thành thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh của mình. với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đoạn “Đất nước” nằm trong chương thứ năm của Bài ca dài và là một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước. Mở đầu đoạn trích, tác giả có cảm nhận mới về quá trình hình thành đất nước. Đất nước được hình thành một cách bình dị, gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu chuyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục tập quán của con người và đất nước. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một cách cảm nhận mới nhưng cũng rất đỗi bình dị về hai tiếng đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với ta, là con đường ta đi học, là lớp học ta ngồi, là bến đò em tắm, là cây đa, là giếng nước, là sân đình, là không gian riêng của những đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện của cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện của tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước. Đất nước là những truyền thống cao đẹp gần gũi với mỗi chúng ta, đất nước là máu, là xương, là máu, là thân thể và ruột thịt, là thứ mà chúng ta bảo vệ cho dù phải hy sinh tất cả. Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ của nước, là người canh giữ, bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm rõ tư tưởng đó, tác giả đã xem xét kỹ các tầng địa lý, lịch sử, văn hóa của đất nước để chứng minh nhân dân là chủ thể sáng tạo ra đất nước trong không gian địa lý. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài trên đất nước. Tất cả những địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử, một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác, chính những truyền thuyết, sự tích, sự kiện lịch sử về nội dung đã biến địa danh ấy thành danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa được mọi người công nhận và biết đến. , là người vợ nhớ chồng lên núi “Vọng Phu”, là đôi trai gái yêu nhau ở hòn Trống Mái, là những sinh viên nghèo tạo nên núi Bút Nghiên hay Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Đen… Diễm đã góp phần tạo nên những địa danh mang tên mình. Trong cảm nhận của nhà thơ, mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là một nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ S của chúng ta mà hàng nghìn năm qua còn ẩn chứa sự chung thủy, tình vợ chồng, nghĩa tình. truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của đất nước, lòng biết ơn cội nguồn, biết ơn người đi trước, người có công với nước, tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước về mặt địa lý, tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà còn cảm nhận nhiều vùng đất, nhiều địa danh mang những tên gọi dân dã. Đặc biệt, nhà thơ không chỉ nhìn đất nước từ bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện ra chính con người tạo nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến những kết luận chung. . Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước đều do nhân dân tạo nên, tất cả đều là kết tinh công sức của những con người bình thường vô danh. Nói cách khác, người dân là người tạo ra đất nước từ mọi khía cạnh địa lý. Bằng nghệ thuật kết cấu quy nạp liệt kê động từ “góp công” lặp đi lặp lại nhiều lần, nhà thơ khẳng định công lao khó nhọc để làm nên những nơi ấy. Tác giả cũng khai thác về mặt lịch sử, tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy rằng nhân dân ta là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. những mốc son oanh liệt của các anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ… không chỉ là những anh hùng nổi tiếng, tác giả còn nói về sự hi sinh tinh thần của những con người vô danh mà họ có thể là những người lính họ đã hi sinh cả tuổi thanh xuân để bảo vệ Tổ quốc. còn lại nơi chiến trường, họ là những người không tên không tuổi, nhưng họ đã cống hiến hết mình cho đất nước, hay là những con người ngày đêm miệt mài. Họ làm nên đất nước bằng cách truyền lại cho chúng ta những giá trị vật chất và tinh thần bằng hạt gạo, tiếng nói, ngọn lửa và bản sắc văn hóa dân tộc. Họ là những người có công đánh đuổi giặc ngoại xâm tạo dựng chủ quyền để làm nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ mai sau thay phiên nhau giữ gìn và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa để làm nên đất nước tươi đẹp. Giọng điệu mềm mại, uyển chuyển, có lúc thủ thỉ, có lúc trang nghiêm, sử dụng tốt chất liệu văn hóa, dân gian, có sự đan xen giữa chất chính luận và chất trữ tình, đi sâu vào lòng người đọc, phần hai của đoạn văn. Trích dẫn Đất nước không chỉ nêu định nghĩa về đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng nhân dân. 5. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, tình yêu đất nước lại càng sáng ngời trong trái tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong những bối cảnh đó. Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một thế hệ người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai.” Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành rất nhiều trong chiến thắng lâu dài nhưng chắc chắn của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm. Khi nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm, trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ của ông, đó là phong cách thơ mà trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã làm say lòng người đọc bởi những cảm xúc sâu lắng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia cuộc đấu tranh vẻ vang của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” nằm trong chương V của “Bài ca khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu. 1974. Tác phẩm cũng đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân” được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn trên cả ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ nó muôn đời?” và từ đâu để trả lời những câu hỏi đó, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của chính mình để tìm về cội nguồn đất nước. Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước ở khía cạnh chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người của một vùng đất tạo ra. Có thể ở đây có giá trị tinh thần hoặc giá trị phi vật thể. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm nhận thấy người Việt Nam không chỉ ra đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, những nét đẹp thấm đượm cốt cách của người Việt Nam. truyền từ đời này sang đời khác, từ trong lòng người già đến lồng ngực lớp trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” nhằm hình dung quá trình phát triển của đất nước trong trường kỳ lịch sử, đất nước như một thực thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là thủ pháp chủ đạo quản lý toàn bài thơ đã góp phần khắc họa một đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn bó với bà, với mẹ, với cha và chính Đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi người. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” Nhà thơ đã ngược dòng cảm xúc về ngày xưa, ngày xưa, đưa ta về với cõi thần tiên diệu kì mà từ lâu đã trở thành nguồn sống, trong tâm hồn ta, cho ta bài học cuộc sống. về nguyên tắc sống nhân ái, yêu đời, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. “Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn” Đó là tục nhuộm răng, là tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, chính là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt đó là từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ đến “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, sau là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn của dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đã đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan quân giặc Ân. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Hình ảnh quân dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp đi lặp lại ba lần, là biểu tượng của truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước. của người dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần kiên trung đánh giặc cứu nước, đồng thời là biểu tượng cho phẩm chất của đời sống. vẻ đẹp của con người Việt Nam dũng cảm. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và lòng tự hào dân tộc. Giọng thơ sâu lắng, trang trọng khiến cho những suy ngẫm về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lý giải về cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, địa danh quen thuộc đã khẳng định rằng Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu ca dao “Tóc mẹ vén sau đầu” nói đến phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước lớn lên từ những giọt mồ hôi thấm mưa nắng. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao, tục ngữ, là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, và cũng là lối sống thủy chung son sắc của biết bao cặp vợ chồng Việt Nam. Câu ca “Kèo, cột thành danh” nhắc đến tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong nhiều câu thơ thứ tám “Gạo của gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, nơi ông cha truyền lại cho con cái lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ. Và chính con người cũng đã lưu truyền những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả cũng nhận ra “Đất Nước có từ ngày ấy…”, và ta không biết ngày ấy là ngày gì, chỉ biết rằng nó có từ rất xa xưa, rất xa xưa. Chỉ biết rằng đất nước đã có từ trong truyền thuyết, huyền thoại và từ thời dân tộc hình thành phong tục, nơi mà từ bao đời con người Việt Nam đã không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và nơi mà bàn tay lao động của mình. để xây dựng đất nước. “Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời điểm đó trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, ăn trầu, búi tóc, sống nghĩa tình, thủy chung. Như trên đã nói, tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, một trong những nhà thơ đã xẻ dọc theo chiều dài của nhiều mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian và địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là toàn bộ những yếu tố tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của đất nước. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Ấn tượng nơi ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ và thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, cùng những các sự tích như “núi vọng phu”, hay là “hòn Trống Mái”. Một lần nữa tác giả cũng như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích nơi thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó cũng là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ cũng đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng với điệp từ “góp”. Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu nói về con người, chất phác, giản dị, tình cảm, có chút lém lỉnh, đáng yêu. Ngược lại, nửa sau là từ “góp” nói về đất nước, lời thơ muôn màu, muôn vẻ. Nghệ thuật tương phản này là bài ca ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm nên vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Dân tộc ta đã làm nên đất nước, đó là đôi vợ chồng thủy chung, cũng là những anh hùng, những chiến sĩ quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trạng, bà Đen, bà Điểm.. .Hơn nữa, khi người dân còn nhỏ bé, những cái tên vô danh, ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà… và trong lòng người đã có những nhân vật chỉ nhắc đến. Đến đây ta mới thấy sự uy nghiêm linh thiêng, sự ngưỡng mộ, tôn thờ đã được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” ở nơi phúc địa quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im trong xanh thẳm”. con sông”. Dân tộc ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một việc chung và thống nhất chung tay xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Việc nhà thơ sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, với ý chí đồng lòng, sự đoàn kết của trăm họ trong một việc góp phần tạo nên một không gian vẻ vang cho nhân dân. . Nhân dân đã góp sức, bằng tình đoàn kết, bằng máu xương, tính mạng, tên tuổi, tài năng. Nhờ đó, thế hệ mới của chúng ta đã trở thành một đất nước hữu hình – một đất nước của những anh hùng. Trước hết ta đến với hai câu thơ sau “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Nó được viết liền mạch theo kiểu ngắt dòng và diễn đạt theo lối phủ định để khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sinh động mang hình thức nghị luận và khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đó, câu thơ thứ ba “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được nỗi lòng, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của nhân dân. Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con là đồng chí. các đồng chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng “Đời đã biến núi sông ta…” chính bởi sự biến đổi đó. Các câu trước mỗi dòng từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ là một trong tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Ngoài ra, nó còn được kết thúc bằng hai âm bằng và như một giọng trầm để phản âm. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao xuyến của bao tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là lời thơ đầy cô đọng. Cuộc đời của những con người ấy tuy ngắn ngủi, hữu hạn nhưng đã hóa thành núi sông, gửi gắm vô hạn, uy nghiêm vĩnh hằng. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân loại chúng ta kỳ diệu biết bao! Họ không chỉ hóa thân để tạo hình đất nước mà còn tạo nên tâm hồn đất nước. Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, làm quan dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của nhiều triều đại và nhiều đời vua “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong khi toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước” Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con” Nếu như Nguyễn Trãi đã nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận vào lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào những con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn những lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, và lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành đó. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của nhiều người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, cùng nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của khi những con người vô danh “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.” Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính là những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Họ truyền cho nhau ngọn lửa đã mang đến sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau với mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của cả đất nước, của dân tộc là hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong và giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, đã từ trong trái tim của mỗi con người yêu văn chương đã vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông ở trong bài thơ “Báng súng” “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”. Chính nhân dân đã viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của nhiều dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ là “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” Không một dòng địa chỉ nào cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện bước chân ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Hay như các triết gia người Đức – Engels cũng đã từng nói “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ đã sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn Đất Nước này là Đất Nước của nhiều Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nơi tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, và đẹp đẽ của văn hóa, với văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, và vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, có truyện cổ là Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại và những câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà là cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của người Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, nơi ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, và đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân. Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, khiến cho dân ca một cách sáng tạo không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và là hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng đã lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó đã khẳng định Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này là sự vận dụng, kết hợp yếu tố dân gian với cách thể hiện tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, nơi văn hóa dân gian được sử dụng tối đa, tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng giản dị, gần gũi, thực tế, bay bổng, mộng mơ của ca dao, truyền thuyết nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận và thể hiện trong hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả tạo nên nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này. Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta cũng phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ đầy dung dị, gần gũi. hơi thở gần gũi, ấm áp của cuộc sống. Chính luận đã ngời sáng phẩm chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp tim” càng làm cho chúng ta thêm yêu và tự hào về 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở vùng địa lý nào, lịch sử hay văn hóa nào thì “Đất nước này là của dân” sẽ được nhân dân mãi mãi bảo vệ và gìn giữ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình vẻ đẹp duyên dáng, tao nhã của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Tính nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ đã với những câu thơ dài ngắn đan xen như sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp lại như một nốt nhạc chủ đạo trong bản hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong nhiều tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời bấy giờ. . Đồng thời, “Đất Nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của những người yêu văn học vì đã bao lần viết về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước còn giá trị cho đến hôm nay. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn 2 là một trong những bài làm văn khá khó trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Do đó, dưới đây là tài liệu phân tích đầy đủ và chi tiết, rõ ràng. Các bạn có thể vận dụng vào bài làm của mình để hiệu quả và đạt điểm cao hơn nhé!Phần mở bài chi tiết phân tích đoạn 2 bài Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmPhần thân bài chi tiếtLuận điểm 1 Định nghĩa về “Đất Nước” thật gần gũi, giản dịLuận điểm 2 “Đất Nước” được định nghĩa theo chiều dài lịch sửLuận điểm 3 ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nướcPhần kết bài chi tiếtChủ đề về tình yêu quê hương, đất nước luôn mang tới cho các nhà văn, nhà thơ những cảm hứng sáng tác vô cùng độc đáo và ấn tượng. Mỗi tác phẩm đều chứa đựng những giá trị lịch sử, nhân văn to lớn. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn 2, chúng ta sẽ hiểu thêm về những điều thú vị này. Phần mở bài chi tiết phân tích đoạn 2 bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, sinh năm 1943 tại Thừa Thiên – Huế. Tác giả vừa là một nhà chính trị giữ nhiều chức vụ rất quan trọng trong bộ máy cơ quan nhà nước, vừa là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm ấn tượng. Sinh ra trong thời loạn lạc, chiến tranh loạn lạc, lại sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu Cách mạng, nên từ nhỏ tác giả đã mang trong mình tình yêu rất mãnh liệt. Ông là một trong những nhà văn, nhà thơ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Vì thế, trong sự nghiệp văn học của mình, tác giả Nguyễn Khoa Điềm có rất nhiều tác phẩm vô cùng độc đáo và được độc giả yêu mến. Vì vừa là một chiến sĩ, nên những tác phẩm của ông rất giàu cảm xúc, chứa chan sự chiêm nghiệm và suy tư sâu lắng và đậm chất trữ tình, chính luận. Những áng thơ văn của ông thể hiện rõ tinh thần chiến đấu và bản chất anh hùng kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ Cách mạng Việt Nam. Nhắc tới nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm độc giả sẽ nhớ ngay tới tác phẩm “Đất nước”. Đây là bài thơ trích trong tập “Trường ca khát vọng” được sáng tác vào gần cuối năm 1971. Ngay trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở lúc căng go nhất. “Đất nước” là một bài thơ thành công rực rõ khi mang tới cho độc giả cái nhìn khái quát, toàn vẹn nhất về tinh thần yêu nước và niềm tự tôn dân tộc. Tác phẩm không chỉ ghi dấu ấn trong tâm trí nhiều thế hệ bạn đọc mà còn được Bộ giáo dục đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 6. Cùng phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn 2 để thấy rõ hơn bức tranh tình yêu quê hương đất nước. Từ “Đất là nơi anh đến trường…. Làm nên đất nước muôn đời”. Phần thân bài chi tiết Luận điểm 1 Định nghĩa về “Đất Nước” thật gần gũi, giản dị Dưới góc nhìn khác biệt và độc đáo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nêu định nghĩa “đất nước” thật ấn tượng “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm ……………………………………………. Mắt ngủ không yên” Thay vì giải thích “đất nước” là những điều gì đó xa xôi mơ hồ, nhà thơ đã tách thành hai yếu tố “đất” và “nước” thông qua những không gian quen thuộc. Từ đó, đất chính là nơi anh lớn lên với những con đường hàng ngày anh đến trường. Cong nước là nơi gắn với những kỷ niệm tuổi thơ em, là những dòng sông êm đềm nơi em thường tắm mát. Để rồi, “đất” và “nước” ghép lại chính là nơi anh và em hẹn hò. Có thể nói, tất cả những kỷ niệm rung cảm, bình dị ấy kết hợp lại hồn đất nước. Khi cả em và anh lớn lên, thì những mảnh ghép tình yêu cá nhân ấy trở nên thân thiết, khăng khít không thể tách rời, giống như đất và nước. Và khi tình yêu của anh và em nhen nhóm cũng chính là lúc tình yêu đất nước bắt đầu. Và tình yêu đôi lứa cùng tình yêu đất nước ấy cứ lớn dần lên. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ “chiếc khăn” vô cùng độc đáo và ấn tượng. Chiếc khăn tay không chỉ thể hiện những xúc cảm, rung động trong tình yêu đôi lứa, hình ảnh dịu dàng thủ chung chung của cô gái. Hình ảnh chiếc khăn cũng chính là những lời quen thuộc trong ca dao dân ca. Có thể nói, “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất?…. Khăn chùi nước mắt?” mang âm hưởng của ca dao, khiến cho lời thơ trở nên vô cùng sống động, gợi hình gợi thanh và giàu cảm xúc cho độc giả. Không dừng lại ở hình ảnh chiếc khăn tay, Nguyễn Khoa Điềm còn định nghĩa “đất nước” cụ thể qua rừng vàng, biển bạc. Đất nước chính nước non núi sông mà bao đời nay ông cha ta gìn giữ và tự hào. Ở đây, với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm những sự vật đơn lẻ ấy bỗng gắn kết lại tạo thành tổ quốc, tạo thành nhân dân Việt Nam. Điều này giống như một sợi dây vô hình liên kết và gắn bó tinh thần đoàn kết của nhân dân da. Dù cho thời gian bao lâu, hay không gian có rộng lớn mênh mông như thế nào thì đất nước, nhân dân vẫn đoàn tụ. “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông, Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Luận điểm 2 “Đất Nước” được định nghĩa theo chiều dài lịch sử Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn, độc giả nhận ra, nhà thơ đã nâng tình cảm lứa đôi lên một tầng cao lớn. Đó không còn gói gọn ở hiện tại anh và em mà đã trở về quá khứ với câu chuyện con Rồng cháu Tiên. “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Ở đây, nhà thơ cũng tách “đất” và “nước” để định nghĩa rõ hơn. Mỗi phần mang một vẻ riêng, mang một sứ mệnh riêng. Nhưng sau đó lại kết lại thành “đất nước” gắn liền với cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ, cùng với huyền thoại bọc trứng trăm con. Có thể nói, trong bóng hình của “đất nước” là bóng hình của cội nguồn con người đất Việt. Điều này cũng giải thích, có thể anh em khác nhau, có thể anh là ở nơi chim về, em ở nơi rồng ở nhưng tất chúng ta đều là “đồng bào” đều từ một cha một mẹ đẻ ra. Vì thế, chúng ta là một thể thống nhất, “đất” và “nước” chính là một “đất nước”, không thể tách rời. Luận điểm 3 ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước Càng phân tích bài thơ độc giả càng cảm thấy như một lời tâm sự đầy chân thành. Nếu như bên trên là lời giới thiệu về “Đất Nước” sâu sắc từ ngàn xưa cho đến ngày nay, từ những điều dung dị ngọt ngào nhất của cuộc sống, thì đến phần này, là những lời chiêm nghiệm về trách nhiệm với đất nước vô cùng ý nghĩa. “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm mới thể hiện rõ tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa sẽ là mảnh ghép không thể thiếu trong tình yêu của đất nước. Qua câu thơ của ông, độc giả cảm nhận được trách nhiệm của mỗi người ngày xưa và người ngày nay, bên cạnh việc yêu nhau, việc sinh con đẻ cái thì cần phải gách vác phần người đi trước. Đó là biết hy sinh vì đất nước. Biết ơn những anh hùng liệt sĩ, những người đã có công dựng nước và giữ nước từ bao đời nay. Không chỉ thế hệ mình mà phải dặn dò cả thế hệ mai sau, mãi luôn gìn giữ ngọn lửa “uống nước nhớ nguồ”, nhơ ngày giỗ Tổ, để ngọn đuốc yêu quê hương đất nước sáng mãi muôn đời. “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn, độc giả dường như hiểu rõ hơn, đất nước có trong tâm hồn mỗi người. Đất nước ghi dấu trong mọi cung đường lịch sử, phát triển của nhân dân. Nói chính xác hơn, đất nước chính là sự hài hòa thống nhất của vạt vật, từ những điều bé nhỏ nhất đến những điều lớn lao nhất, từ cá thể mỗi người đến cả một cồng động người. Bởi vậy, chúng ta, mỗi người cần phải nắm lấy tay nhau. Chỉ khi đoàn kết nắm lấy tay nhau vượt qua mọi khó khăn thì đất nước mới to lớn, vẹn tròn. “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ. Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Đất nước là xương máu của mỗi người. Đất nước là cội nguồn, là tình yêu, là gia đình, là làng quê, là tuổi thơ. Bởi thế mỗi con người phải luôn ý thức biết san sẻ, gắn bó, phải biết hy sinh, hóa thân mình cho dáng hình xứ sở nếu cần. Chỉ khi mỗi người đêu có trách nhiệm, đều thấu cảm về điều đó thì đất nước mới vững bền muôn đời. Điều này không chỉ có trong chiến tranh mà ngay trong thời bình, dân tộc Việt Nam đã làm được điều đó. Khi cả đất nước đã chung tay chiến đấu lại đại dịch Covid 19 trong suốt 2 năm qua. Phần kết bài chi tiết Kết thúc phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đoạn 2, độc giả không khỏi xúc động bâng khuâng trước góc nhìn mới mẻ và ấn tượng về đất nước. Đất nước không xa xôi mà chính là những điều bình dị nhất gắn bó với mỗi con người. Qua những lời thơ sâu sắc đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về trách nhiệm với đất nước của mỗi cá nhân. Bên cạnh giá trị nhân văn sâu sắc, bài thơ còn có những nét đặc sắc về nghệ thuật. Nhà thơ đã sử dụng tài tình và linh hoạt các chất liệu dân gian, giúp lời thơ, nhịp thơ trở nên gần gũi, dễ dàng nhớ hơn với độc giả. Với giọng thơ trữ tình như một lời nhắn nhủ chân thành, mang âm hưởng chính trị đằm thắm thâm thúy, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điểm như một khúc hát xa xưa mà mỗi người vẫn được các bà các mẹ ru vào mỗi đêm hè. Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi cá nhân. “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình khi ở đây, nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người. Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng là mảnh kí ức gợi nhớ gợi thương cho tâm hồn bất cứ ai. Hai câu thơ tiếp, Đất Nước lại hiện ra trong những câu ca dao, tục ngữ, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng. “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông, nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri, mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng, và đồng thời cũng là một điểm tựa để gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc. Đất Nước trong thời gian đằng đẵng, Đất Nước còn trường tồn bất tử trong không gian mênh mông, không gian hùng vĩ. Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước, chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn nhắc mình đạo lí Uống nước nhớ nguồn truyền thống Hàng năm, đều nhớ ngày giỗ tổ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, để soi sáng, dẫn đường cho họ, thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào, như một lời gửi gắm chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Khiến cho người đọc như phần nào thêm đồng cảm, thêm thấm thía về sự hòa quyện, gắn kết của Đất Nước trong tâm hồn mỗi người. Đất Nước là máu xương của mỗi người, vì nó được gây dựng và được giữ gìn bằng sự sống và tình yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, đã hi sinh. Và còn bởi, Đất Nước cho ta hình hài máu thịt, cho chúng ta cách sống và cách nghĩ, cho chúng ta điểm tựa truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố đó đã hun đúc nên vẻ đẹp và nét tâm hồn riêng của con người Việt Nam, trong đó có cả anh và em, có mỗi chúng ta. Nếu bất cứ một cá nhân nào tồn tại đều là sự đơn độc mà không có một cộng đồng để bám víu, để làm điểm tựa cho sự trưởng thành và dưỡng nuôi về văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào ta trở thành kẻ bơ vơ lạc lõng ư? Đó chính là ý nghĩa thẳm sâu nhất mà Đất Nước có sức ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm hóa thân cho dáng hình xứ sở, đều phải gắn bó hinh sinh, vì đó cũng là sự tạo tác tinh thần của mỗi chúng ta. Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng. Các bài viết liên quan Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm hay nhất Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm ngắn nhất Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 để thấy những phát hiện độc đáo mà gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất bàiGiới thiệu tác giả, tác phẩmThân bàiPhân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểmLuận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đờiLuận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đất nước là đề tài mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất nước. Đoạn trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca này. phan-tich-bai-tho-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem-doan-2-1 Thân bài Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đời Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân dân. Trong đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp lý. Bắt đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên… Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt gạo. Sau khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2, ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất” Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Qua những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưa Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở. Hai câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa tình. Những câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm thắm. Em ơi đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời… Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viết Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Chất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Luận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất nước. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ở đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng hình. Những người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất nước. Và từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc động Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta Nhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh hùng. Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Tuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho ta. Từ những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở Huế. Bằng tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ. Bạn đang thắc mắc về câu hỏi phân tích đoạn 2 đất nước nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi phân tích đoạn 2 đất nước, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ tích đoạn 2 bài thơ Đất Nước Văn mẫu 12 hay nhất – tích Đất nước hay nhất 21 Mẫu – Văn 12 – tích đoạn thơ thứ 2 trong bài thơ Đất nước – Wiki tích đoạn thơ thứ 2 trong bài thơ Đất nước – tích văn học ôn thi Đại Học – [Đất Nước] Đề 2 Phân tích khổ tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm … – ThiênBảo 9 mẫu phân tích bài thơ Đất nước hay chọn lọc – tích bài đất nước đoạn 2 – tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2Những thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi phân tích đoạn 2 đất nước, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Văn Học -TOP 10 phân tích đoạn 1 đất nước HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích đoạn 1 của bình ngô đại cáo HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích xuất dương lưu biệt HAY và MỚI NHẤTTOP 9 phân tích xsmt hôm nay HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vội vàng học sinh giỏi HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích về nhân vật phương định HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vẻ đẹp của chị em thúy kiều HAY và MỚI NHẤT

phân tích bài đất nước đoạn 2