Iijima became involved in campaigns to educate the public about HIV/AIDS, a cause that few Japanese celebrities were willing to undertake. On December 24, 2008 at about 3:30 p.m. (JST), Iijima was found dead in her 21st floor Tokyo apartment. Pathology examination showed she had died of pneumonia shortly after retiring from the public eye. Contents Họp, làm việc định kỳ để gỡ vướng ngay cho doanh nghiệp dược phẩm. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu Bộ Y tế tổ chức họp, làm việc định kỳ với hiệp hội, doanh nghiệp dược phẩm, cùng các bộ ngành liên quan để xử lý ngay các vấn đề cụ thể phát sinh trong Tự Sự - Lưu Quang Vũ by Song Dep in Văn thơ, Sống Chậm-Đẹp-Vui 0 MỤC LỤC Tự Sự Tự Sự Dù đục dù trong, con sông vẫn chảy Dù cao dù thấp, cây lá vẫn xanh Dù người phàm tục hay kẻ tu hành Đều phải sống từ những điều rất nhỏ Ta hay chê cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm? Đất ấp ươm cho hạt nảy mầm Nhưng chồi tự vươn lên tìm ánh sáng 17/04/2018 | Nguyễn Việt Chiến Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Những đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng. Nó không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ mà sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc khắc Nghe bài hát Thất Tình Remix chất lượng cao 320 kbps lossless miễn phí. Ca khúc Thất Tình Remix do ca sĩ Trịnh Đình Quang thể hiện, thuộc thể loại Remix Việt. Các bạn có thể nghe, download (tải nhạc) bài hát that tinh remix mp3, playlist/album, MV/Video that tinh remix miễn phí tại NhacCuaTui.com. Sự kiện ung thư âm đạo. Tac nhan gay hai benh ung thu buong trung. tai kham benh ung thu phan mem co duoc khong. Ung thu bang quang rat yeu doi voi nu cuoi tren moi. Ung thu bang quang tai phat. ung thu bang quang xet nghiem som co dieu tri duoc khong. Yp8yZKf. Việt Nam ơiNhững áo quần rách rướiNhững hàng cây đắm mình vào bóng tốiChiều mờ sương leo lắt đèn dầuLũ trẻ ngồi quanh mâm gỗLèo tèo mì luộc canh rauMấy mươi năm vẫn mái tranh nàyDòng sông đen nước cạnTiếng loa đầu dốc lạnhTin chiến trận miền xaNhững người đi chưa vềNhững quả bom hầm hào sụt lởNhững tên tướng những lời hăm dọaNgười ta định làm gì Người nữaViệt Nam ơi?Mấy mươi năm đã mấy lớp ngườiChia lìa gục ngãĐã tận cùng nỗi khổNgười ta còn muốn gì Người nữaViệt Nam ơi?Người đau thương, tôi gắng gượng mỉm cườiGắng tin tưởng nhưng lòng tôi có hạnChiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào muốn khócXin Người tha thứ, Việt Nam ơiTổ quốc là nơi tỏa bóng yên vuiNơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhấtNhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nátXin Người đừng trách giận, Việt Nam ơiTôi làm sao sống được nếu xa NgườiNhư giọt nước bậu vào bụi cỏNhư châu chấu ôm ghì bông lúaNgười đẩy ra tôi lại bám lấy NgườiKhông vì thế mà Người khinh tôi chứViệt Nam vì tôi đau khổ rã rờiMà Người ghét bỏ?Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạXin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam ơiNgười có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một NgườiTất cả sẽ ra saoMảnh đất nghèo máu ứa?Người sẽ đi đến đâuHả Việt Nam khốn khổ?Đến bao giờ bông lúaLà tình yêu của Người?Đến bao giờ ngày vuiNhư chim về bên cửa?Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơiTrong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?Đến bao giờ đến bao giờ nữaViệt Nam ơi?Lưu Quang Vũ - Tập thơ Bầy Ong Trong Đêm SâuVề lại với 'Việt Nam ơi'...... Là về với một bài thơ của Lưu Quang Vũ. Bài thơ được Vũ viết từ những năm đầu thập kỷ 70, nhưng chỉ sau khi Vũ mất khá lâu, khi trên thế giới này, cuộc đấu tranh ai thắng ai’ chỉ còn có một bên muốn làm chiến sĩ, bài thơ mới được in ra nhờ tấm lòng của những người chí tình với thơ và với khi trở thành một kịch tác gia với những kịch phẩm dữ dội nhất của sân khấu Việt Nam vào thập kỷ 80, Vũ đã là một nhà thơ. Và tôi tin rằng trong tâm tưởng bạn đọc, Vũ trước tiên và vĩnh viễn là một nhà thơ. Một nhà thơ, không phải hoàn toàn như Hoài Thanh nhận xét trong sự quy chiếu của lý luận chính thống “...rất gắn với chế độ chúng ta... Cái buồn ở anh là cái buồn trung hậu.” 'Một cây bút trẻ nhiều triển vọng' - Tạp chí Văn học số 12 năm 1966. Ở độ tuổi hai mươi, vào lứa tuổi của những người đồng lứa thích hát Bài ca Trường sơn’ Gia Dũng và tin rằng “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Phạm Tiến Duật, Vũ đã chiết từ trái tim mình ra những câu thơ đạt tới sự vi tế, nhưSe sẽ chứ không cánh buồm bay mấtQua dịu dàng ẩm ướt của làn đọc dễ nhận thấy từ đó một khả năng cảm biến cực kỳ bén nhạy trước nỗi đau, chứ không chỉ nỗi buồn. Những câu thơ như thế ở thời ấy của Vũ, hay những câu thơ sau của Bằng ViệtNơi tựu trường ngây thơ, trang giấy thơm đầu tiênMái trường ngây thơ không quên được bao giờChuông xe điện trong màn sương rạng sớmVà nắng nhỏ trên hàng cây rét muộnCó thể nào không xui tôi nhớ emMột chút thì thầm trong tình yêu Hà Nội’đã từng phải nhận về mình những nhát búa của sự phê bình theo đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng “ít sức sống, xa rời hiện thực cách mạng...”, Không biết sự phê bình ấy có phải là động lực chính làm biến đổi người bạn thơ song hành cùng Vũ thuở hoa niên trong tập thơ in chung Bếp lửa Hương cây thành một viên chức cao cấp không? Còn với Vũ, dường như sự phê bình ấy không có tác dụng. Đọc Vũ, có cảm giác Vũ đã gửi vào tất cả các kịch phẩm của mình cái Vũ thu được bằng thị giác, và dành cho thơ tất cả những gì sâu kín nhất, da thịt nhất mà Vũ cảm được từ trong vững bền mà mong manh của cuộc sống con người. Vũ làm thơ trước hết là vì những ẩn ức của riêng mình. Thơ - ấy là hình thức tự giải phóng của Vũ - điều không mấy nhà thơ cùng thời Vũ đạt nước - hay đúng hơn là những quần thể người sống trên đó - Nhân dân - là một ám ảnh trong thơ Vũ. Chuyện bình thường với những nhà thơ. Nhưng sẽ là không thường nữa khi nhà thơ ấy không nói giống bất kỳ ai, mà lại là thành thực nhất, thiết tha nhất về Tổ quốc, về nhân dân mình. Đó là trường hợp của Việt Nam ơi’.Không một chú dẫn cụ thể nào về thời điểm ra đời của bài thơ ngoài dòng chữ in ở những trang đầu, bên dưới nhan đề tập Bầy ong trong đêm sâu Thơ. 1970-1975. Nhưng dù không có dòng chú giải ấy, những ai đang ở độ tuổi ngoài ba mươi vẫn dễ dàng đoán ra được hiện thực lịch sử dân tộc đã động vào cảm quan thơ của Vũ. Chính là thế, là cái thời ấy, thời mỗi con người - từ trong tâm thức - đã rã rời, kinh hoàng bởi chiến tranh; nhưng chiều chiều trên những phố phường Hà Nội, loa phóng thanh vẫn truyền đi những giai âm của Bài ca Hà Nội’, của Hà Nội niềm tin và hy vọng’... Một cách đầy lý trí, một nửa nước Việt Nam vẫn cố tin và cố tự hào. Thơ về đất nước thời ấy, và cả thời không xa trước đấy, thường là tụng ca Đất nước’ Nguyễn Đình Thi, Xuân 67’, Xuân 69’ Tố Hữu, Đất nước’ Nam Hà, Mặt đường khát vọng’ Nguyễn Khoa Điềm, Tình yêu và báo động’ Bằng Việt... ở đó đất nước được hình dung như là, và trước tiên là người sinh thành của những chiến công, của những anh hùng dũng nước của những người con trai con gáiĐẹp hơn hoa hồng, cứng hơn sắt thépXa nhau không hề rơi nước mắtNước mắt chỉ để cho ngày gặp mặtNam HàNhững bà mẹ lại đo chân vào thần tíchĐể hoài thai triệu triệu những anh hùngNguyễn Khoa ĐiềmPhù hợp với những hình dung như thế là trùng trùng điệp điệp những tán thán đầy tính xưng tụng, nguyện thề Hỡi ôi!’Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn nămTổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?Chế Lan ViênÔi Tổ quốc giang sơn hùng vĩTố HữuChưa bao giờ tôi thấy một bài thơ nào về đất nước có nhan đề giản dị như Việt Nam ơi’ của Vũ. Từ gọi hỏi ơi’ đã nhất thể hóa đất nước với con người, đã gợi ra sự gần gũi tột bậc giữa khách thể và chủ thể, đã mở ra một khát khao giãi bầy, khơi mở...về cuộc sống đơn giản, thiếu thốn, đầy nghiệt ngã thời chiến tranhNhững áo quần rách rướiNhững hàng cây đắm mình vào bóng tốiChiều mờ sương leo lắt đèn dầuLũ trẻ ngồi quanh mâm gỗLèo tèo mì luộc canh rauMấy mươi năm vẫn mái tranh nàyDòng sông đen nước cạnTiếng loa đầu dốc lạnhTin chiến trận miền xaNhững người đi chưa vềNhững quả bom hầm hào sụt lởNhững tên tướng những lời hăm dọa...Sự thống kê này mang sức lay cảm của thơ và chỉ những nhà thơ lớn mới làm được. Chỉ có những nhà thơ đã thoát khỏi sự ràng buộc của những quan niệm phức tạp hóa thơ mới có thề viết thế. Loạt tính từ - từ láy rách rưới’, leo lắt’, lèo tèo’, hoặc chỉ giản đơn là những trạng từ cạn’, lạnh’, đen’, xa’, sụt lở’... có giá trị như những gam màu tối trên những bức tranh về sự thống khổ của những con người của những danh họa. Dám viết như thế ở thời buổi ấy, Vũ đích thực là Người-Không-Biết-Sợ. Giá từ hồi ấy những câu thơ này đến được với hồn ta! Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì Vũ chưa khác mấy với những nhà thơ cùng thời. Chẳng phải cũng vào những năm đó, Phạm Tiến Duật đã xuất hiện với một gương mặt khác qua Vòng trắng’? Cái động vào tâm thức người đọc khiến ta muốn khóc ở Việt Nam ơi’ là những câu nàyNgười ta còn định làm gì Người nữaViệt Nam ơi?Người ta còn muốn gì Người nữaViệt Nam ơi?Những dấu hỏi cuối câu khép lại từng khổ thơ đã tước bỏ hết những lớp hào quang mà nhà cầm quyền đã tô vẽ cho cuộc chiến lẽ ra chúng ta đã không phải lăn mình vào. Không phải cái hùng’ đánh thức chúng ta. Đánh thức chúng ta là nỗi đau của chính chúng taMấy mươi năm đã mấy lớp ngườiChia lìa gục ngãĐã tận cùng nỗi khổPhải đọc những câu thơ này trong sự đối sánh với những câu thơ thời ấy, viết về thời ấyLớp cha trước lớp con sauĐã thành đồng chí chung câu quân hànhTố HữuCha còn đang quân hànhCon đã xin nhập ngũMột hòn đá Trường sơnCả hai cùng gối ngủNguyễn Trọng Oánhmới thấy hết được sự can đảm của Vũ trong cách cảm nhận hiện thực, mới thấy hết sự quyết liệt của nhà thơ trẻ ấy trong cách đặt vấn đềNgười ta định, Người ta muốn >< Việt Nam - cần chăng việc giải thích ngọn nguồn hai chữ người ta’. Có cần chăng việc nói nhiều hơn về tình yêu Tổ quốc da diết của Vũ ở đây? - ở những câu hỏi mà chỉ có những tâm hồn lớn mới dám đặt ra cho mình?Vũ yêu Tổ quốc bằng tình yêu của người dân thường, của Người-Dưới-Đáy Ôxtrốpxki và bằng tình yêu của một nhà thơ chỉ để mình bị chỉ đạo bằng một tinh thần duy nhất - Nhân bản, bởi độ rung của những dây thần kinh xấu hổ’ Bônđarép. Sẽ không khi nào ta tìm được ở những bài thơ cùng đề tài, cùng thời điểm ra đời với Việt Nam ơi’ nỗi đau đớn tật cùng, cũng là tình yêu tột cùng đến độ sắp rơi vào mê loạn như những câu thơ nàyTổ quốc là nơi tỏa bóng yên vuiNơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhấtNhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nátXin Người đừng trách giận, Việt Nam ơiTôi làm sao sống được nếu xa NgườiNhư giọt nước bậu vào bụi cỏNhư châu chấu ôm ghì bông lúaNgười đẩy ra tôi lại bám lấy NgườiKhông vì thế mà Người khinh tôi chứViệt Nam ơi....Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạXin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam ơi!Dường như từ tiềm thức, Vũ đã cảm biết mình là người xa lạ giữa thời mình hiện hữu. Nhưng chẳng phải là thế này ư trong những hoàn cảnh bi thương nhất của mỗi dân tộc, những nghệ sĩ - những kẻ xa lạ - những người điên - lại thành Người-Độc-Tỉnh, mà thiếu họ, thế gian đầy bất trắc này sẽ chỉ còn là những mê lộ. Đó là trường hợp của những Khuất Nguyên, Đốtxtôiépxki... và không nhiều các tên tuổi khác. Ở Việt Nam, đó là trường hợp của Vũ. Đau đớn lắm thay! Vinh hạnh lắm thay!Cùng thời với Vũ, hầu như các nhà thơ đều bị cuốn vào cơn lốc của những cuộc hành quân. Điều dễ hiểu! Vũ đã từng đi trong đội ngũ, và Vũ đã tuột xích’. Đấy là điều không thể khác ở một con người như Vũ. Khác với rất nhiều người yêu Tổ quốc rồi dần dần xa lạ hóa Tổ quốc, thể hiện Tổ quốc như một đối tượng để chiêm bái và loay hoay tự làm mất bóng mình trong bóng cả của Tổ quốc, Vũ - cũng chân thành như thế - nhưng lại chỉ ra quan hệ song đối giữa mình và Tổ quốc mình. Không còn là chiêm ngưỡng mà là chiêm nghiệm. Không còn là tráng ca mà là một khúc ai có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một NgườiTất cả sẽ ra saoMảnh đất nghèo máu ứa?Người sẽ đi đến đâuHả Việt Nam khốn khổ?Đến bao giờ bông lúaLà tình yêu của Người?Đến bao giờ ngày vuiNhư chim về bên cửa?Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơiTrong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?Đến bao giờ đến bao giờ nữaViệt Nam ơi?Vẫn lại là những câu hỏi tu từ ấy, khôn cùng day dứt và chua xót. Trong âm vọng ai oán của chúng, người ta cảm nhận được tất cả sự thống khổ của nước non này, của dân tộc này. Việt Nam ơi’ có thể được coi là bi phẫn ca hiện đại. Cũng chính từ đó, bỏng cháy một khát khao yên bình đã thăng hoa. Khát khao ấy đã được Vũ hóa giải thành tình yêu bông lúa, thành bóng chim, thành nắng, thành tiếng cười trẻ nhỏ. Lẽ dĩ nhiên vẻ đẹp của yên bình không chỉ là như thế. Nhưng cũng là lẽ dĩ nhiên, không thể có một hình dung khác về yên bình nếu thiếu đi những hình ảnh trên. Hạnh phúc bao giờ cũng giản dịĐời đáng yêu nhiều lúc có gì đâuMiếng ván chênh kêu giữa nhịp cầuMột buổi chiều sương nghe chó sủa...Xuân DiệuÔi cuộc đời bình dị quá đây kiaMột bà mẹ ngồi ôm con hóng mátMột chú bé hai nắm tay dụi mắtMột con đường có bóng lá xe điVũ Quần PhươngHiểu như thế mới, cảm hết được khát khao tuyệt vọng của Lưu Quang Vũ về đất nước!Đến bao giờ đến bao giờ nữaViệt Nam ơi?Có thể một ai đó sẽ nói rằng bài thơ buồn quá, bi thảm quá. Mà quả vậy! Trùng điệp những câu hỏi cứa lòng kia không có tiếng trả lời. Nhưng đó là sự thực, không phải của thời xa xôi ấy mà còn của cả thời ta đang sống. Biết làm sao! Sức mạnh của thơ ca chính là ở chỗ đó, ở khả năng biết đau buồn và yêu thương, và làm cho người đọc cùng chung trải những nỗi niềm ấy. Năm tháng sẽ qua đi, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét...’ Sẽ chỉ còn lại tình yêu’ Nguyễn Huy Thiệp. Sau tất cả những thăng trầm, dời đổi, trước và trên tình yêu gái trai là tình yêu Tổ quốc khó nghèo, cơ cực và tao loạn. Chỉ khi nào nói được đúng như thế về tình yêu Tổ quốc, thơ về Tổ quốc mới có thể lặng lẽ đi qua thời gian, lặng lẽ sống, không cần trò tung hứng của những người làm xiếc chữ. Việt Nam ơi’ là một bài thơ như thế. Ở đó, chúng ta đã cảm thấy hết những dằn vặt suốt đời của Vũ. Từ thuở ấy - thời người ta cao giọng Thời đánh Mỹ là thời tươi đẹp nhất. Tỏa nắng cho thơ là triệu triệu những anh hùng’ Chế Lan Viên. Vũ đã không tin một cách dễ dàng rằng Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh’ Hồ Chí Minh. Mấy ai ở miền Bắc đã dám không tin như thế? Vũ đã nghẹn ngào về một Việt Nam khốn khổ’. Phải chăng, cái gọi là văn học phản kháng’ sau này đã cắm rễ từ những tác phẩm chỉ được ấn hành trong trí nhớ của bạn bè như thơ Vũ? Và như thế, sẽ chẳng phải quá lời nếu nói rằng Vũ đã đóng góp nhiều nhất, sớm nhất cho văn học phản kháng - phần thơ. Văn học phản kháng được biết chủ yếu qua văn xuôi. Xin xem lại Mây trắng của đời tôi’ và Bầy ong trong đêm sâu’ Lưu Quang Vũ trong so sánh với ít nhất giải thơ báo Văn Nghệ năm 1972.Thơ là người. Bằng nhân cách thơ của mình - chỉ ở riêng một Việt Nam ơi’, Vũ xứng đáng có mặt trong đội ngũ hiếm hoi của những người hát rong của nhân dân trên đất nước đàn bầu. Bài thơ Tự sự là bài thơ mà tác giả dùng để gửi gắm bao điều về quan niệm hạnh phúc mà theo tác giả là hạnh phúc cuộc đời mình chính do mình tạo ra bằng nghị lực của bản thân tới tất cả mọi người. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến bài thơ này, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo một số đề đọc hiểu Tự sự dưới đây và xem gợi ý đáp án của từng đề bạn nhéCác đề đọc hiểu Tự sựĐề số 1Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới Tự SựDù đục, dù trong con sông vẫn chảyDù cao, dù thấp cây lá vẫn xanhDù người phàm tục hay kẻ tu hànhĐều phải sống từ những điều rất hay chê rằng cuộc đời méo móSao ta không tròn ngay tự trong tâm ?Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mâmNhững chồi non tự vươn lên tìm ánh sángNếu tất cả đường đời đều trơn lángChắc gì ta đã nhận ra taAi trong đời cũng có thể tiến xaNếu có khả năng tự mình đứng phúc củng như bầu trời này vậyĐâu chỉ dành cho một riêng ai.Lưu Quang VũCâu 1. Xác định hai phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản 2. Anh/ Chị hiểu thế nào về ý nghĩa hai câu thơ sauĐất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầmNhững chồi non tự vươn lên tìm ánh 3. Theo anh/ chị, vì sao tác giả nói rằngNếu tất cả đường đời đều trơn lángChắc gì ta đã nhận ra taCâu 4. Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị?Đáp án đề đọc hiểu Tự sự số 1Câu 1 Hai phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là nghị luận và biểu 2 Ý nghĩa hai câu thơĐất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầmNhững chồi non tự vươn lên tìm ánh “Đất” – nguồn sống, nguồn dinh dưỡng cho hạt nảy mầm. Nhưng đất không phải của riêng cho một hạt mầm nào. Cũng như cuộc sống trong cõi đời này không dành riêng cho một ai mà cho tất cả chúng ta. Hạnh phúc ở quanh ta nhưng không tự nhiên đến. Nếu muốn có cuộc sống tốt đẹp, muốn có hạnh phúc, tự mỗi người phải có suy nghĩ và hành động tích cực; phải nỗ lực vươn lên, như “những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”.Câu 3 Tác giả nói rằngNếu tất cả đường đời đều trơn lángChắc gì ta đã nhận ra taBởi vì, “đường đời trơn láng” tức là cuộc sống quá bằng phẳng, yên ổn, không có trở ngại, khó khăn. Con người không được đặt vào hoàn cảnh có khó khăn, thách thức, không phải nỗ lực hết mình để vượt qua trở ngại, thử thách để đến được đích, khi đó con người không có cơ hội để thể hiện mình nên cũng không khám phá và khẳng định được hết những gì mình có; không đánh giá hết ưu điểm cũng như nhược điểm của bản thân. Con người có trải qua thử thách mới hiểu rõ chính mình và trưởng thành 4 Thí sinh có thể chọn ra cho mình thông điệp mà bản thân thấy tâm đắc nhất sau đó trình bày suy nghĩ của mình về thông điệp ấyVí dụ có thể chọn một trong những thông điệp dưới đây- Dù là ai, làm gì, có địa vị xã hội thế nào cũng phải sống từ những điều rất nhỏ; biết nâng niu, trân trọng những cái nhỏ bé trong cuộc sổng mới có được hạnh phúc lớn Con người có trải qua thử thách mới hiểu rõ chính mình và trưởng thành Muốn có được hạnh phúc phải tự mình nỗ lực vươn Cuộc sống khống phải lúc nào cũng như ta mong muốn, biết đòi hỏi nhưng cũng phải biết chấp nhận, biết nhìn đời bằng con mắt lạc quan, biết cho đi thì mới được nhận số 2Đọc bài thơ sau đây sau đó thực hiện yêu cầuTự SựDù đục, dù trong con sông vẫn chảyDù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh..............Hạnh phúc củng như bầu trời này vậyĐâu chỉ dành cho một riêng ai.Lưu Quang VũCâu 1 Xác định thể thơ của bài thơ trênCâu 2 Bài thơ sử dụng những biện pháp tu từ nào?Câu 3 Em hiểu gì về hai câu thơTa hay chê rằng cuộc đời méo móSao ta không tròn ngay tự trong 4 Trình bày suy nghĩ của em về hai khổ thơ cuối của bài thơ trình bày trong khoảng 10-12 dòngĐáp án đề đọc hiểu Tự sự số 2Câu 1 Thể thơ của bài thơ trên là thể thơ tự doCâu 2 Bài thơ sử dụng những biện pháp tu từ là Đối lập tương phản; nhân hóa ẩn dụ ; So 3 Ý nghĩ của hai câu thơTa hay chê rằng cuộc đời méo móSao ta không tròn ngay tự trong sống luôn chứa đựng những điều đối lập nhau hạnh phúc xen lẫn khổ đau; niềm vui, nụ cười xen lẫn giọt nước mắt ; thành công xen lẫn sự thất bại ; cơ hội xen lẫn thách thức, khó khăn.... Đôi khi chúng ta sẽ gặp phải những nỗi buồn, sự thất bại, khó khăn, trở ngại và những điều ấy dễ làm ta có những ý nghĩ tiêu cực, ca thán cuộc đời không như mình mong muốn Chế cuộc đời méo mó. Những lúc như vậy thay vì ca thán, trách cứ số phận ta hãy làm thay đổi hoàn cảnh bằng chính nghị lực, sự nỗ lực, quyết tâm của ta Tròn ngay tự trong tâm.Câu 4 Các em có thể dựa theo gợi ý dưới đây để hoàn thành đoạn văn- Cuộc đời luôn công bằng với sự nỗ lực, quyết tâm của mỗi người. Những gì bạn gieo ngày hôm nay sẽ là thành quả bạn gặt hái được ngày mai. Đứng dậy sau những thất bại, vấp ngã là điều ta nên làm thay vì chán chường, thất vọng rồi gục Hạnh phúc như bầu trời vậy, không dành riêng cho ai. Ai cũng có cơ hội nắm bất hạnh phúc, cơ hội thành công nếu ta biết vươn lên, kiên cường trong giông tố, khó khăn, thử đây là một số đề Đọc hiểu Tự sự mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà! … Ta hay cho rằng cuộc đời méo mó/ Sao không tròn ngay tự lương tâm/ Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm/ Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng/ Nếu tất cả đường đời đều trơn láng/ Chắc gì ta đã nhận ra ta/ Ai trong đời cũng có thể tiến xa/ Nếu có khả năng tự mình đứng dậy/ Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy/ Không chỉ dành cho một riêng ai!Những ngôn từ trong bài thơ Tự sự của Lưu Quang Vũ rất bình dị, có sức ám ảnh nghệ thuật rất lớn truyền tải đến người đọc về một nhân sinh quan tích cực. Chỉ qua hai câu thơ đầu “Ta hay cho rằng cuộc đời méo mó/ Sao không tròn ngay tự lương tâm”, ta thấy giọng thơ mang âm hưởng trách móc nhẹ nhàng. Sự đối xứng của các ngôn từ Méo mó/tròn - cuộc đời/lương tâm mang tính ẩn dụ sâu sắc có tính phê phán để mà chiêm nghiệm. Không dừng ở chỗ chê trách, nhà thơ lại chỉ ra cho ta cái nhìn về cuộc đời thực tế hơn thông qua một điều theo quy luật của tự nhiên “Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm”. Đất không của riêng cho một hạt mầm mà “mọi hạt mầm” cũng như cuộc sống trong đời này không dành cho một người mà cho tất cả chúng ta nếu muốn sống tốt, sống có ý nghĩa thì phải biết “Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”. Cổ nhân đã từng nói “Ví phỏng đường đời bằng phẳng hết/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Lưu Quang Vũ đã khéo léo thay cách nói ấy bằng những vần thơ giàu chất tự sự “Nếu tất cả đường đời trơn láng hết/ Chắc gì ta đã nhận ra ta”. Giọng thơ từ tự sự thâm trầm chuyển sang cầu khiến gợi mở cho ta biết cách vào đời và biết cách tồn tại “Ai trong đời cũng có thể tiến xa/ Nếu có khả năng tự mình đứng dậy”. Đọc đến đây ta có cảm giác như nhà thơ muốn mượn lời dạy của đức Phật “Các con hãy tự thắp đuốc lấy mà đi” để khắc sâu ý tưởng của khép lại bài thơ với cách diễn đạt mang tính thuyết minh, nhà thơ trải lòng mình để gửi gắm bao điều về quan niệm hạnh phúc mà theo tác giả là hạnh phúc cuộc đời mình chính do mình tạo ra bằng nghị lực của bản thân “Hạnh phúc cũng như bầu trời vậy/ Không chỉ dành cho một riêng ai”.Cám ơn nhà thơ Lưu Quang Vũ đã để lại cho đời một thông điệp về lẽ sống giàu chất triết lý nhưng được thể hiện bằng một chất giọng tâm tình nhỏ nhẻ, và những ngôn từ bình dị có sức lan tỏa và thấm sâu vào lòng người, đặc biệt cho thế hệ trẻ trong thời đại mới ngày Học Đà Nẵng Bạn có hứng thú với thơ tự sự của Lưu Lượng Vũ không? Hãy cùng phe binh van hoc theo dõi bài viết này nhé! Video đầy đủThơ tự sự của Lưu Quang Vũ Thơ tự sự là thể thơ được tác giả sử dụng để thể hiện nhiều quan niệm về hạnh phúc, theo quan điểm của tác giả, hạnh phúc là niềm hạnh phúc trong cuộc sống mà mình tạo ra cho mọi người bằng chính sức lực của mình. .Nhằm giúp các bạn hiểu rõ hơn, sâu hơn về các câu hỏi đọc hiểu liên quan đến bài thơ này, sau đây chúng tôi cùng tham khảo một số tài liệu tham khảo các câu hỏi đọc hiểu để xem đáp án gợi ý cho từng câu. Hỏi Câu hỏi đọc hiểu văn tự sự Chủ đề 1 Đọc đoạn văn dưới đây và trả lời các câu hỏi sau Bạn đang xem Tự truyện của Lưu Quang Vũ Tường thuật Dù trời mây sông vẫn chảy Tham khảo Phân tích tho tho ngay lop 10 Dù cây cao hay thấp Cho dù bạn là người thường hay hành giả Ai cũng phải sống bằng những điều rất nhỏ. Ta thường chê cuộc đời méo mó Tại sao chúng ta không khoanh tròn tâm? Hãy ôm lấy trái đất và để mọi hạt giống nảy mầm Mầm vươn lên tìm nắng Nếu đường đời bằng phẳng Tôi chắc là tôi nhận ra bạn Ai cũng có thể tiến xa hơn trong cuộc đời Nếu bạn có thể đứng lên một mình. Hạnh phúc như bầu trời Không chỉ một người. Lưu vũ điệu ánh sáng Câu 1. Xác định hai phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên. Câu 2. Em hiểu nghĩa của hai câu thơ sau như thế nào Đất ôm lấy mình, làm cho mọi hạt giống nảy mầm Cành non vươn lên tìm nắng. Tham khảo Đề cương văn xã hội lớp 11 Mục 3. Bạn nghĩ tại sao tác giả lại nói Nếu đường đời bằng phẳng Tôi chắc là tôi nhận ra bạn Mục 4. Phần thông tin nào từ văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với bạn? Đáp án câu hỏi đọc hiểu 1 câu 1 Hai phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là Lập luận và Biểu cảm. câu 2 Ý nghĩa của hai câu thơ Đất ôm lấy mình, làm cho mọi hạt giống nảy mầm Cành non vươn lên tìm nắng. – “Đất” – nguồn sống, nguồn dinh dưỡng cho hạt giống nảy mầm. Nhưng trái đất không dành cho một hạt giống. Giống như cuộc sống trên thế giới này không dành cho một người mà dành cho tất cả chúng ta. Hạnh phúc ở đâu cũng có nhưng không tự nhiên mà đến. Để sống tốt, hạnh phúc, mỗi người phải có suy nghĩ và hành động tích cực, phải phấn đấu vươn lên, như “mầm vươn về phía ánh sáng”. Câu 3 Tác giả nói Nếu đường đời bằng phẳng Tôi chắc là tôi nhận ra bạn Bởi vì, “Thuận buồm xuôi gió” có nghĩa là cuộc sống bình yên, êm đềm, không trở ngại, không khó khăn. Con người không nên đặt mình vào hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nếu không nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách để đến đích thì con người sẽ không có cơ hội thể hiện mình, không tìm tòi, khám phá, không khẳng định mình. mọi thứ. Có; không đánh giá đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của chính bạn. Con người phải trải qua thử thách để hiểu nhau hơn và trưởng thành hơn. câu 4 Thí sinh được lựa chọn thông tin mà mình tâm đắc nhất rồi bày tỏ suy nghĩ của bản thân về thông tin đó Ví dụ có thể chọn một trong các thông báo sau <3 Biết trân trọng và biết ơn những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống sẽ mang lại hạnh phúc lớn lao. – Con người cần trải qua thử thách để biết mình và trưởng thành. – Muốn hạnh phúc thì phải nỗ lực vươn lên. – Cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn, hãy biết đòi hỏi và cũng phải biết chấp nhận, hãy biết nhìn đời bằng cái nhìn lạc quan, hãy biết trả giá để được đền đáp. Chủ đề 2 Đọc bài thơ dưới đây và áp dụng Tường thuật Dù trời mây sông vẫn chảy Tham khảo Phân tích tho tho ngay lop 10 Dù cây cao hay thấp ……… Hạnh phúc như bầu trời Không chỉ một người. Lưu vũ điệu ánh sáng câu 1 Xác định thể thơ của khổ thơ trước câu 2 Bài thơ sử dụng những biện pháp tu từ nào? câu 3 Em hiểu như thế nào về hai câu này Ta thường chê cuộc đời méo mó Tại sao chúng ta không khoanh tròn tâm? Câu 4Giới thiệu cảm nghĩ của anh/chị về hai khổ thơ cuối của bài thơ khoảng 10-12 dòng Trả lời câu hỏi đọc hiểu 2 Câu 1 Thể gieo vần của bài thơ trước là thể thơ tự do câu 2 Đoạn thơ có sử dụng các biện pháp tu từ như tương phản; ẩn dụ nhân hóa; so sánh. Câu 3 Hãy suy nghĩ về hai dòng Ta thường chê cuộc đời méo mó Tại sao chúng ta không khoanh tròn tâm? Trong cuộc sống luôn có những mặt đối lập của niềm vui và nỗi đau; niềm vui, tiếng cười xen lẫn nước mắt; thành công xen lẫn thất bại; Chúng ta hãy có những suy nghĩ tiêu cực, than trách cuộc đời, cuộc sống không như ý muốn méo mó cuộc sống. Lúc đó, thay vì kêu ca, oán trách số phận, tốt hơn hết bạn nên dùng nghị lực, sự chăm chỉ và quyết tâm tâm tích cực để thay đổi hiện trạng. Câu 4 Bạn có thể làm theo hướng dẫn bên dưới để hoàn thành đoạn văn – Cuộc sống luôn công bằng và cần sự nỗ lực, quyết tâm của mỗi người. Những gì bạn gieo hôm nay, bạn sẽ gặt hái vào ngày mai. Đứng dậy sau thất bại, vấp ngã là điều chúng ta nên làm thay vì chán chường, thất vọng và gục ngã. ——Hạnh phúc giống như bầu trời, nó không thuộc về tôi. Tất cả chúng ta đều có cơ hội tận dụng nghịch cảnh và thành công nếu biết vươn lên, kiên cường trước giông bão, khó khăn, thử thách. – Trên đây là một số câu hỏi phần đọc hiểu về Tự truyện do Đọc Truyện sưu tầm, hi vọng sẽ hữu ích cho các bạn đang ôn tập tại nhà! Tài liệu tham khảo Nghị luận về bảo vệ môi trường Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc thơ tự sự của Lưu Quang Vũ. Tôi hy vọng bài viết này hữu ích cho cuộc sống hàng ngày và học tập hàng ngày của bạn. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây. Website Từ cái tên của nhà văn Lưu Quang Vũ, người viết bài này xuyên qua những tác phẩm của ông trên nhiều thể loại để đi tìm và phân tích một ý niệm và cảm giác, còn rất mơ hồ nảy sinh trong mình, rằng văn chương Lưu Quang Vũ như một dòng mưa chảy trên đất nước chúng ta những ngày nắng dữ. Dòng mưa ấy có lúc trầm buồn như tiếng than dài, có lúc ào ạt như thác đổ. Nửa thế kỷ nay, cơn mưa lành Lưu Quang Vũ đã gội rửa không thôi bụi bặm và rác rưởi của cõi đời ô trọc. Khả năng thanh lọc và tính truyền cảm lạ lùng của nỗi buồn, cũng như niềm giận dữ của cơn mưa văn chương anh không du người ta vào bóng tối mà đưa người ta đến một miền ánh Quang Vũ 1948-1988.Bài viết hình thành từ việc lần lượt hoặc luân phiên trả lời những câu hỏi sau Vì sao nhan đề bài viết là “Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng” mà không là “Văn chương Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng?” Vì sao là mưa mà không là gì khác? Mưa ánh sáng là gì? Dòng mưa ánh sáng Lưu Quang Vũ như thế nào? Nó mang lại những gì cho chúng ta?1. Thế kỷ XX nhiều lý thuyết văn học nói với chúng ta rằng nhà văn và văn bản của ông ta là hai thực thể không trùng khít. Nhưng có lẽ bất kỳ một khái quát nào cũng có thể không bao trùm hết mọi hiện tượng. Đôi khi ta bắt gặp những trường hợp mà nhà văn và văn bản hòa quyện vào nhau thành một khối không rời. Đó là những thiên tài mà văn chương là lá cành hoa quả bừng nở đến sững sờ trên thân cây là cuộc đời thoáng chốc giữa trần ai của họ. Với cái tên “Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng”, bài viết này muốn chạm đến một chân dung nghệ sĩ mà kích thước của ông không dừng lại ở quy chiếu thông thường của cõi người. Người viết nghĩ rằng càng nhìn trên góc độ tự nhiên, bản mệnh và cá tính sáng tạo của Lưu Quang Vũ càng tỏ lộ. Toàn bộ văn bản đã công bố của anh sẽ được đọc và phân tích theo trình tự thời gian và theo hệ vấn đề gồm các thể loại thơ, văn xuôi, kịch bản, phê bình, phỏng vấn, nhật ký. Ở đó, sắc thái mưalà điểm là một hiện tượng tự nhiên thể hiện sự nối kết chặt chẽ liên hoàn giữa đất và trời, giữa khí và nước. Khi mắt ta nhìn thấy mưa thì đó là lúc nước từ trời rơi xuống. Dòng nước này mang lại sự sống còn, sinh sôi của đất. Trong tâm thức của nhân loại, mưa “còn là sự phong nhiêu của tinh thần, ánh sáng và các tác động tâm linh” và hơn nữa “Đức hiền minh cao cả nhất trong bản chất của một con người có thể ví với mưa” Huệ Năng[1]. Vậy thì đến với Lưu Quang Vũ, khởi đầu ý niệm mưa chỉ đơn giản là bắt nguồn từ cái tên Vũ. Đó là cái tên thiêng, vì người mang tên ấy đã thể hiện đúng bản chất và sứ mệnh mà nhân loại nhìn thấy ở mưa qua trang viết. Hơn nữa, kết hợp với họ “Lưu” và chữ lót “Quang”, cái tên như là một biểu thị rõ rành của thiên Nam nhiệt đới gió mùa nông nghiệp cần mưa “Lạy trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày…” đó là mưa trời. Việt Nam, nơi và thời Lưu Quang Vũ sống, và cho đến hôm nay, rất cần mưa hạn hán đã đến và kéo dài, từ khi con người khước từ tất cả, chỉ duy trì nơi mình cái tôi chính trị và mục tiêu chiến thắng quân thù. Đời sống rắn lại trong một thế giới lý tính và ý chí. Thời sợ xao lãng mục tiêu, sợ yếu mềm vì mơ mộng, vì niềm riêng, vì nỗi buồn cái hạn hán của xã hội đó cần những cơn mưa từ con người. Cơn mưa đó không chỉ là hình ảnh mưa xuất hiện với tần số khá cao trong thơ Lưu Quang Vũ, và có lúc là biểu tượng sống động, mà là toàn bộ những gì anh trao gửi cho chúng ta qua trang giấy. Mưa ánh sáng không còn là cơn mưa tự nhiên mà là biểu tượng về cái sáng suốt của tự nhiên. Đó là cái hiền minh tự nhiên trong trang viết của Lưu Quang Vũ, một thời bỡ ngỡ, một thời lạc loài, một thời chinh phục…Đời của anh ngắn ngủi nhưng dòng mưa của anh thì dài. Sẽ phải tái hiện từ các chặng đời của anh, và cả những chặng đời của việc tiếp nhận anh. Ở đó, có hạt mầm xanh của mưa. Ở đó có diễn trình và luân hồi của mưa. Ở đó có sắc thái của Quang Vũ - Xuân Quỳnh ảnh Tư liệu.Mưa, một thời bỡ ngỡ. Mưa, dòng nước mát thuở ban sơLưu Quang Vũ bước vào thế giới văn chương nghệ thuật rất sớm và rất tự nhiên, là xác tín không chỉ của riêng anh mà còn là của gia đình. Tài năng và kiến thức của anh đến từ gia đình, từ đời sống trực tiếp hơn là từ trường lớp. Ngay từ những bài thơ đầu tiên, phong cách thơ anh đã hình thành Về cảm hứng, thiên nhiên tràn ngập; về kỹ thuật, câu thơ thường dài 7, 8 chữ, có khi thơ tự do; nhịp điệu và âm điệu hoàn toàn nương theo cảm xúc, không hề gò bó. Có một nốt nhạc, một cái tứ nào ngân lên từ trong sâu thẳm trái tim anh và bài thơ tuôn ra tiếng rì rào của một dòng mưa ấm. Thôn Chu Hưng 1964 là bài tiêu biểu. Đó là niềm hoài cảm từ Hà Nội xa xôi, ký ức gọi về tất cả[2]. Bài thơ ứ đầy các sinh thể của tự nhiên, để rồi Lưu Quang Vũ biết chắc, một lần cho tất cả, ngọn nguồn nuôi dưỡng hồn anh và thơ anh là từ đâu [3].Từ rất sớm, Lưu Quang Vũ đã biết quan sát, lắng nghe tự nhiên và lòng mình. Có vẻ như anh tương thông với tự nhiên dễ dàng hơn là tương thông với con người. Có vẻ như anh đã nhận ra là mình khác với mọi người. Về sau này, nhiều lần anh nói lên cảm giác ấy trong thơ và trong nhật ký. Nhưng cảm giác ấy không ngăn anh bước vào đời lính, nơi phải khoác vào mình đồng phục, nơi cần khép mình vào kỷ luật. Bởi không khí hào hùng của những ngày kháng chiến chống Pháp mà gia đình anh đã trải qua thúc giục anh, cũng như không gian hoang sơ miền Phú Thọ đã nuôi dưỡng tâm hồn anh, để rồi hai nguồn cảm hứng xuất hiện Tự nhiên và Người lính. Cả đời văn của anh, tự nhiên chưa bao giờ vắng mặt. Còn người lính, có mặt trong giai đoạn văn thơ đầu đời, sẽ chuyển qua thành Người công dân lương thiện ở giai đoạn sau. Tình yêu của anh đối với Đất nước và Con người bắt nguồn từ những điều cụ thể và luôn cụ mưa thơ Lưu Quang Vũ thuở đầu đời như tên gọi Hương cây[4], nhẹ bay trong không trung và loáng ướt một lớp màu tươi tắn. Vũ trụ thì sống động với bút pháp tranh sơn dầu[5] trong khi đó con người thấp thoáng bằng các nét phác như tranh ký họa. Mẹ, những người línhvà người em bé nhỏ của tình yêu đầu đời, in dấu, nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương và lòng biết ơn[6].Quan niệm nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã hình thành rất sớm, anh không đề cao óc tưởng tượng “quan trọng nhất là cuộc sống và tình cảm của người viết”, cần nuôi dưỡng cái “bát ngát, dạt dào”[7]. Tác phẩm của Lưu Quang Vũ trước sau chính là cuộc sống và tình cảm của anh, ở đó, cái bát ngát và dạt dào chưa bao giờ vắng bóng, ngay cả những ngày tâm hồn anh âm u nhất[8]. Những truyện ngắn được anh viết trong thời gian này cũng tràn đầy chất thơ. Thị trấn ven sôngphảng phất truyện ngắn hiện đại Nga. Mạch truyện tự nhiên, bình thản, chậm rãi, nhiều chi tiết của thiên nhiên và đời sống rất gợi. Trong khung cảnh thị trấn vắng vẻ miền cao, những người trẻ lặng lẽ tham gia vào nhịp sống đơn sơ và hy trình Dấu ấn Lưu Quang Vũ được phát sóng trên một thời lạc loài. Mưa, nỗi buồn nhân thếTrong không gian miền Bắc những năm chiến tranh, Lưu Quang Vũ là nhà thơ lạc loài, và trang viết của anh nhiều năm liền phải chìm trong bóng tối. Về sau này, khi xã hội cởi mở hơn, thơ anh lần lượt được xuất hiện công khai, nhiều bài nghiên cứu đã cắt nghĩa nỗi buồn trong thơ anh bằng bi kịch cá nhân của tuổi hai mươi sau khi giải ngũ, Lưu Quang Vũ thất nghiệp và hôn nhân tan vỡ. Chúng tôi đã đọc kỹ những trang nhật ký trong Di cảo Lưu Quang Vũ để nhận ra rằng, nỗi buồn và ý thức phản kháng đã xuất hiện trong anh từ ngày anh còn đi học. Từ mười lăm tuổi, anh đã nói lên những “cái không chịu được” trong nhà trường và xã hội[9]. Cái “tầm thường”, “rẻ tiền”, thậm chí “man rợ”mà anh chạm phải, làm anh mất đi niềm vui, làm anh chán ngán[10].Nhưng khát vọng sống là làm được điều gì đó tốt đẹp cho cộng đồng nơi Lưu Quang Vũ chưa bao giờ nhạt. Những cảm giác “ngột ngạt” “chán lớp đến cùng cực”[11] ấy ngày một lớn, làm thành một khắc khoải, bất bình không ngớt trong anh, cho đến ngày anh rời bỏ ghế nhà trường. Những biểu hiện không hòa đồng và cực đoan của anh bị một số bạn bè cho là thái độ “khinh người” và sau này một số nhà nghiên cứu cho là nông nổi và lầm lạc, thiếu sự phải chăng. Trước những phản ứng như vậy đã có nhiều ngày, anh tự trách mình. Đã có lúc anh tìm về Phú Thọ như để lấy lại bình an đã mất và nạp lại năng lượng. Phải chăng là anh có lỗi? Không, đọc hết các trang viết của Lưu Quang Vũ sẽ nhận ra, anh chưa bao giờ cho mình là kẻ đứng trên, kiêu ngạo anh yêu mến cả những điều nhỏ nhoi nhất của thế giới này. Anh cũng không cực đoan theo nghĩa lý tính hay là có xu hướng nhìn vào mặt xấu của con người. Anh chỉ không chịu nổi sự tầm thường, công thức, giả dối và bạo lực[12]. Từ 1964, Lưu Quang Vũ chấp nhận nỗi buồn trong mình như một lẽ tự nhiên “mày sinh ra đời không phải để vui tươi mà để suy nghĩ”[13]. Anh gọi tên nó “cái ánh sáng đầy hạnh phúc và cay đắng”[14], anh hiểu đó là ánh sáng bất tận của cuộc đời mà anh mang vác. Nhưng đó là cuộc đời-giữa-con người. Còn có một cuộc đời khác lặng lẽ, khiêm nhường, đền bù cho anh những khi có thể, đó là cuộc đời-giữa-tự nhiên[15]. Tuổi mười sáu, anh đã có những ngày vùng vẫy để tự bảo vệ, để nuôi dưỡng tâm hồn chan chứa yêu thương của mình[16]. Và như vậy, trong những ngày tưởng như bế tắc nhất, Lưu Quang Vũ cũng chưa bao giờ hết yêu thương, chưa bao giờ buông xuôi, anh đã biến tất cả thành nhiên liệu của thơ ca, để không phải chỉ vì thơ ca mà còn vì một thế giới tự do, bình an, trong bộ đội, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ là một lý tưởng lớn của rất nhiều thanh niên miền Bắc lúc bấy giờ, Lưu Quang Vũ cũng không là ngoại lệ. Năm năm trong cuộc đời quân ngũ, anh được gặp nhiều “con người đẹp đẽ” cũng như “những con người tầm thường”. Nhưng ngay sau đó đã có hai giọt rượu lớn làm tràn đầy ly rượu đời cay đắng trong anh. Cùng một lúc, anh chạm phải hai thực tại mà anh đã đặt vào đấy rất nhiều kỳ vọng đời quân ngũ và cuộc sống hôn nhân. Cảm giác lạc loài hiện rõ “Bị xếp vào loại thiếu gương mẫu trong đơn vị”; “phải làm kiểm điểm và hứa trước đơn vị là “từ nay không làm thơ nữa”; “bị coi như một người có “vấn đề” trong tư tưởng”[17]. Cảm giác có lỗi và bất lực hiện rõ Người bạn đời rời bỏ anh, đứa con trai còn quá bé bỏng. Bị giạt ra khỏi hai không gian mà mình chọn lựa với bao chờ mong, hăm hở, tin yêu, con người biết làm gì? Mà đó là con người ở tuổi đôi mươi chỉ có một khả năng rõ ràng là yêu thương và viết? Mà đó là thời những chọn lựa chỉ được phép loay hoay trong một cộng đồng xem tiếng nói tập thể là chính xác, xem sinh hoạt bao cấp là lý tưởng?Trong tình thế ấy, Lưu Quang Vũ đã đi vào đời sống, không từ nan những mưu sinh khó nhọc. Đời sống, những nơi đã đi qua lại lấp lánh, lại được chạm khắc trong thơ anh. Trạng thái trống rỗng và khủng hoảng nội tâm đi vào thơ anh. Để không bị nhấn chìm, lấm láp hay tuyệt vọng, buông xuôi, anh đã từng ngày tự nhắc “Làm việc, làm việc để chiến thắng thời gian và bóng tối”. Với tình yêu đã mất, chỉ là niềm thương xót. Với xã hội, là một dự cảm buồn “Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu”.Có thể nói, những bài thơ hay nhất của Lưu Quang Vũ ra đời trong thời lạc loài, đặc biệt là 1971-1972. Cây giờ không chỉ tỏa hương, cây đã hóa nên trầm. Chưa bao giờ mà cảm thức về đời sống và tình yêu lại quyện chặt trong thơ anh đến thế. Ngày trong quân ngũ, có những đôi mắt soi vào trang viết của anh. Ngày rơi xuống đáy của nỗi buồn, có những ánh nhìn rọi vào tình yêu của anh. “Cửa sổ” của anh, “mưa” của anh, “làn sương” của anh hết thảy đã biến màu, tan nát. Chỉ còn sừng sững núi đá. Khi anh đứng giữa dòng đời, mưa đã không còn mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn[18]. Những bài thơ thời lạc loài đã âm thầm kết thành một dòng mưa dài chứa chất một tiếng nói bất tận về nỗi đau. Là nỗi đau xác thực mà anh nếm trải. Những nỗi đau đến từ đâu?Đó là nỗi đau từ chiến tranh. Có thể nói, Lưu Quang Vũ là nhà văn miền Bắc nói lên “nỗi buồn chiến tranh” sớm hơn tất cả. Nhiều bài thơ dài đầy chất tự sự của anh đã khắc họa rõ rành một khuôn mặt chiến tranh tàn khốc[19]. Từ trước đến sau, hình ảnh người lính trong trang viết của anh vẫn là hình ảnh đẹp, nhưng cái hào khí của chiến tranh đã mất đi rồi. Chỉ còn phơi ra một thực tại kinh hoàng[20]. Mơ mộng mà luôn quan tâm đến những vấn đề xã hội, Lưu Quang Vũ là nhà văn dấn thân, bởi cách nhìn và tiếng nói của anh một thời khác với mọi người. Thời sự in dấu trong nhật ký, trong thơ văn anh từ rất sớmHồ sơ mùa hạ 1972. Những mưu toan, những tráo trở trên trường chính trị đã đi vào thơ anh [21], cũng như vào truyện ngắn Một chuyện ở biên giới,Người đưa thư.Ngày xưa, khi mẹ kể chuyện người chết trong chiến tranh, Lưu Quang Vũ không chịu nổi, phải chạy ra ngoài[22], giờ đây, cái bạo tàn của chiến tranh dội vào anh, làm anh choáng váng. Anh tái hiện lại một Khâm Thiên tan hoang trong câu hỏi day dứt vì sao và nỗi ám ảnh không rời đau nhói[23]. Chiến tranh tất yếu sẽ dẫn đến hành động sát nhân. Nhưng ai sẽ chết? Từ năm 1968, anh đã ý thức về bi kịch của cuộc chiến tranh Nam Bắc [24] và ngày càng rõ[25]. Những ngày trong cái lò lửa hủy diệt ấy, chỉ có người chiến binh mới biết mình đã trải qua những gì[26] và cái đọng lại nơi họ là lòng ăn năn không dứt“ các anh ơi, đừng trách chúng tôi/ các bà mạ, tha thứ chúng tôi/ chúng tôi chẳng thể làm khác được”Những đứa trẻ buồn. Chiến tranh như vậy là một “quá khứ nặng nề” cần phải quên đi, vì mỗi vinh danh là một lần nhắc lại nỗi đau họ từng nếm trải, là sống lại những cơn mộng dữ đẫm máu người[27].Đó còn là nỗi đau từ những suy tư về đất nước. Lưu Quang Vũ có những bài thơ dài như cơn mưa tự nghìn xưa đổ về nhắc lại hành trình dân tộc[28]. Trong Đất nước đàn bầu, nhân vật tôi ở đây trò chuyện với ai? Có lúc người đàn ông Lạc Việt da vàng nói với toàn nhân loại. Có lúc đứa cháu bé nhỏ nói với người bà đã khuất. Có lúc chàng trai nói với người yêu… Tuyệt tác này là kết tinh cao nhất của khả năng chạm khắc, hòa âm và biểu cảm nơi Lưu Quang Vũ, như hồn nước đã nhập vào anh “Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối/ Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối/ Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn”. Nhưng rõ ràng thay, hồn nước không chỉ là lịch sử, văn hóa, mà còn là khí thiêng của tự nhiên “Quả bầu khô là tâm sự của vườn/ Mặt đàn gỗ là của rừng xanh thẳm/ Điệu bát ngát là của đồng của đất/ Lời vụng về là tha thiết lòng tôi”. Người nghệ sĩ độc đáo Lưu Quang Vũ khiêm nhường trong dào dạt yêu thương và gắn bó với cộng đồng “Hồn dân tộc dạy ta làm thi sĩ/ Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua”[29]. Quá khứ ấy được dệt nên bởi những con người vô danh siêng năng làm lụng Người cùng tôi. Quá khứ ấy là một kết tinh tự nhiên qua hàng ngàn năm lịch sử, có khi hôm nay cho ta còn được niềm hy vọng. Từ đó, “Những câu thơ âm thầm/ Muốn nói hết sự thực/ Về đất nước của mình”[30]. Sự thực nào về đất nước? - Ly tán, hận thù, mê cuồng học thuyết? Như một số nhà tư tưởng phương Tây từng nói về nền văn minh lạc lối, Lưu Quang Vũ kêu gọi sự thức tỉnh để trở về. Anh nói đến một ngày đoàn viên không phân ngôi thứ, bờ ranh[31]. Một ước mơ đau đáu được nói thành lời “cái làng mới ta xây/ ở đó mọi người có quyền nói lên tất cả/ ở đó không ai làm phiền đến một con dế nhỏ” Tìm về. Dù hiểu là thời hậu chiến, mọi điều không đơn giản “biển bao la sau trận mưa dài/ sắp tới là những ngày khónhất”, nhưng nhà thơ hy vọng “những người tốt không được quyền vô dụng” và mạnh mẽ khuyến cáo “hãy im đi lời bịp bợm dối lừa/ lũ nước ngoài xảo quyệt cút ngay ra/ máu con người không phải thứ bán mua/ cái bánh vẽ không no lòng ai được/ bài học lớn của một thời đau xót/ trên hận thù nóng bỏng tàn tro”[32].Sự thực nào nữa về đất nước? Những điều trông thấy nhói lòng anh đói nghèo, trì trệ, những kiếp đời nhọc nhằn…[33]. Anh chán ngán những trang viết “Như phường bát âm thánh thót …/ chạy theo những biển hàng ngắn ngủi/ Những khuôn phép những trang in những hư danh một buổi”[34]. Anh đau đớn trước sự tàn lụi, tha hóa của con người[35].Anh kinh hoàng trước cuộc sống mọi giá trị đảo lộn[36]. Anh nhấn mạnh vai trò “người báo hiệu” trong dòng lịch sử[37]. Anh kêu gọi sự thức tỉnh để đổi thay “Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp/ Đến nay thành không đủ nữa rồi”.Anh muốn thơ dấn mình hành động“Chúng ta đi mở những cánh cửa/ Chúng ta suốt đời đi mở những cánh cửa”[38]. Như vậy, cùng với “nỗi buồn chiến tranh”, cảm hứng thế sự và đời tư cũng xuất hiện sớm trong tác phẩm Lưu Quang Vũ, so với các tác giả cùng thời. Bên cạnh thơ ca, một số truyện ngắn của anh[39], bằng cách viết rất nhẹ và thoáng, đã chạm đến những vấn đề của con người và xã hội mà hôm nay chúng ta phải đối mặt như là căn bệnh trầm kha lối giáo dục gò ép phi tự nhiên vì sĩ diện hão Nhà thơ; hiện tượng người đóng vai, rồi vĩnh viễn bị giam cầm trong lốt ấy Người kép đóng hổ; người trí thức đọc nhiều, nói hay mà ruồng rẫy vợ và vô cảm với con Con anh Mậu; người lính tha hóa trong hòa bình Người bạn cũ, Những người bạn; kẻ khôn lỏi, không có chuyên môn, thường khinh bạc, lượn lờ trong công việc và tỏ ra cao đạo, hoài nghi Anh Y; người mơ mộng, luôn muốn mang đến cái mới cho thế giới này nhưng tàn lụi vì hoàn cảnh Anh Thình; người thành thực, có khát vọng cao cả, có tài năng, nhưng “cô đơn vì không được người đời hiểu” Mùa hè đang đến... Truyện ngắn Lưu Quang Vũ thường phác ra những tình huống và những tính cách và dừng lại ở những cái kết lửng lơ. Từ khá sớm, Lưu Quang Vũ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế và pháp luật[40]. Phong cách và ý tưởng này sẽ được phát triển rõ ràng và mạnh mẽ hơn trong chỉ suy tư về dân tộc mình, Lưu Quang Vũ còn nói đến Trung Hoa trong bài thơ tự do với những nét khắc gọn, sâu, một Trung Hoa nghịch lý đầy ám ảnh. “Sáng suốt và tối tăm/ Uyên thâm và nhẹ dạ/ Cái người Tàu kỳ lạ/ Ngồi dầm củ cải giữa đêm khuya…” Ở đấy, ánh sáng trong anh nói rằng văn hóa và chính trị là khác nhau, nhân dân và triều đại có khi cách biệt. Từ đấy, anh đã vượt qua những hận thù quá khứ giữa hai dân tộc, nhưng anh băn khoăn về một biến động lở trời long đất “Dưới liễu xanh, lũ quỷ đổi thay màu/ Tiếng chiêng trống, tiếng loa gào thét/ Chín trăm triệu người ồn ào mà nín lặng/ Trung Hoa muốn gì/Nhân dân đi về đâu?”. Những vần thơ này ra đời năm 1974; với cái nhìn thấu suốt vấn đề, anh dẫn lại Tư Mã Thiên, lời cảnh báo xuyên qua trùng trùng năm tháng “Hồn bạo chúa nghiến răng trong bụi cát/ Mọi ngai vàng, theo lửa hóa tro than…” Trung Hoa[41].Mưa, kết tinh của Đất và Trời, của Khí và Nước, như người ta yêu nhauYêu thương là thiên tính của Lưu Quang Vũ, ngay cả khi anh cất lời phê phán xã hội hay kể lể về nỗi buồn trong trang viết của mình. Những khuôn mặt nữ làm anh xúc động, dù thoáng chốc hay lâu dài, cũng đều là nguồn sống của thơ anh. Lưu Quang Vũ có những duyên tình đẹp, tất cả đã trở thành vĩnh cửu nhờ thơ ca. Anh đã gặp được những người nữ thấu hiểu anh, lắng nghe anh, cả cảm xúc sáng tạo lẫn những trầm tư đời sống. Tình yêu của Lưu Quang Vũ chưa bao giờ thu lại trong vũ trụ kỳ ảo của hai người, tình yêu ấy cứ xao xác “nghĩ về đất nước nghĩ về em”[42] và điều đặc biệt nữa là không nhuốm mùi thân xác như lẽ thông thường. Tình yêu với anh, dù có những cung bậc khác nhau, nhưng luôn trong trẻo vì nó bắt nguồn từ một tương thông tinh thần bạn bè tri kỷ hơn là sự đam mê trai gái bình thường. Tuổi mười lăm mười tám, những rộn ràng của trái tim thơ dại đã in vào trang viết Lưu Quang Vũ những vần thơ đẹp. Có những bài thơ vui mà kỹ thuật và ý tứ già dặn đến ngạc nhiên[43]. Em thoáng qua và đất trời tràn ngập, nhưng từ đó đã len vào những lo âu thấp thỏm[44]. Rồi nỗi đau đầu đời của duyên tình đổ vỡ đã đến, ướp vào thơ anh hương vị cay đắng[45]. Nhưng khắc khoải nhất là khi người ta bị hút vào nhau như tri âm, tri kỷ “Như hai kẻ lạc loài nay nhận ra nhau” mà tuyệt vọng vì không thể. Vẻ đẹp của một tình yêu không toại lại càng lung linh và những dòng thơ lại càng ám ảnh “hai ta hãy là giấc mộng của nhau thôi”[46]. Những gặp gỡ thoáng chốc, cũng làm người thơ sững sờ xao xuyến[47]. Cuối cùng một tình yêu lớn, viên mãn, trọn mười lăm năm đã là bệ phóng cho tài năng Lưu Quang Vũ. Tình yêu ấy đã làm phục sinh con người “Có em, anh hiểu lại cuộc đời/ Có em, anh bắt đầu tất cả”; “Anh lại có sự tươi bền của đất. Nói với thời gian bằng sắc cỏ xanh rờn”[48]; Tình yêu mang lại bình yên, cảm giác được nương tựa, chở che[49]. Trong niềm vui mừng và biết ơn ấy, có một ước nguyện đến nao lòng ít thấy ở người đàn ông “Muốn trao em gương mặt đến tâm hồn/ Đều trong trắng, tràn đầy, thuần khiết nhất”. Cómột tôn vinh đặc biệt người nữ được yêu trở nên lớn như đất trời “Em như đất của con người”,“Trời rộng của anh ơi” và là người thầy khai sáng[50]. Lạ thay, ngay cả trong những thời khắc hạnh phúc nhất, cảm giác về bất trắc luôn đến giữa những dòng thơ Lưu Quang Vũ và sự dự báo ngày một rõ ràng hơn[51].Lưu Quang Vũ không thi hóa tình yêu, anh nói cả những thói đời trần tục, và nỗi khổ từng ngày len vào hạnh phúc[52], nhưng anh yêu thiết tha cái tâm hồn đồng điệu của người bạn tình ấy, cái dáng vẻ thân ái ấy. Yêu “cái cùng khổ cùng vui ấy”. Trong mắt anh, người tình và người bạn đời vừa có cái thăm thẳm của bầu trời, vừa có cái nhỏ nhoi cụ thể thân quen của mỗi ngày nhìn thấy. Cảm giác về khoảng trống người rời đi và cảm giác ngóng đợi người trở về đã làm nên nhiều trang thơ tình yêu mang dáng vẻ một tấm lụa đơn sơ mà màu sắc cứ lấp lánh biến ảo theo từng khoảnh khắc Em vắng đó là thời gian mà chàng thường ở nhà và nàng thường ra đi, đểsóng và bờ hoán đổi vị trí cho nhau trong thơ Xuân Quỳnh Sóng.Thơ Lưu Quang Vũ tràn đầy chi tiết, nhưng là chi tiết được liên kết bởi mạch nền tự sự nội tâm nên khi mỗi khi câu thơ tràn bờ thì thơ anh ám ảnh chúng ta. Vũ Quần Phương và nhiều người gọi anh là hồn thơ “đắm đuối”. Tôi nghĩ sắc thái ấy có lẽ chỉ dành cho thơ tình Lưu Quang Vũ những giòng mưa xói đất trắng trời, trút hết cơn bão lòng của chia xa, của nhận ra nhau mà không đến được. Nhưng trên toàn thể, thơ Lưu Quang Vũ là nhịp đập dào dạt miên man của đời trong mọi dáng vẻ và trong mọi sinh thể tự nhiên nó như tiếng rì rào của lá, tiếng trầm trầm của mưa, tiếng rộn rã của người… mà anh bắt được. Tần số của đời vô biên thì tần số của thơ anh không dừng lại. Chưa bao giờ nhân hóa tự nhiên hay quy chiếu mọi cái theo lăng kính của mình, Lưu Quang Vũ là người có tâm hồn chan hòa rộng rãi. Anh luôn tìm thấy những nhịp cầu ở muôn nơi để “Nối hạt cát với ngôi sao/ Bánh ăn và giấc mộng/ Đưa tôi tới những bến bờ chưa tới được/ Vượt khỏi mình, tôi nhập với trăm phương/ Nói lời riêng mà thấu triệu tâm hồn”[53].Rất nhất quán trong quan niệm về nghệ thuật, những xác tín trước sau của Lưu Quang Vũ có thể tìm thấy trong thơ, truyện ngắn và kịch, có khi là những tuyên ngôn trực tiếp[54], có khi là những mạch ngầm. Dạt dào cảm xúc và hình ảnh nhưng cũng tràn đầy biểu tượng, chi chít những tự sự riêng chung nhưng cũng ẩn nén nhiều trầm tư văn hóa, nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ được cấu trúc theo một logic khác, làm thành mê cung nội tâm trong vọng âm của ngoại cảnh[55]. Đọc thơ Lưu Quang Vũ thuở ban đầu, Hoài Thanh đã nhận ra là thơ anh đôi khi có nhiều đứt gãy[56]. Theo thiển ý, đó là một phong cách, nó như lớp lớp sóng dồn của một trái tim yêu thương nồng cháy, bật ra thành dòng ngôn ngữ chồng chất dung nham. Đất nước đàn bầu và Bầy ong trong đêm sâu là những bài tiêu biểu của loại logic khác này. Nó đòi hỏi người ta phải đọc rất lâu mà chưa hẳn đã lần ra hết ý thời chinh phục. Những cơn mưa xối xả trắng trời hậu chiếnNếu Phú Thọ mang đến cho Lưu Quang Vũ ngôi nhà bình an của tự nhiên thì Hà Nội đưa anh vào thế giới của văn hóa, với những sinh hoạt thị dân, trong đó không gian nhà hát có một vai trò không nhỏ. Nhật ký của anh cho thấy trong một quãng đời ngắn ngủi, Lưu Quang Vũ sống gấp nhiều lần người khác ở một nhịp điệu suy tưởng và sinh hoạt dồn nén và đa dạng. Một ngày trôi qua không làm được gì, không viết được dòng chữ nào, đối với anh là có lỗi. Tuổi mười lăm anh đã hình thành quan niệm “Đời người ta tốt đẹp không phải là vì sống nhiều năm mà là làm nhiều việc”[57]. Những đêm theo cha vào nhà hát, Lưu Quang Vũ đã bước vào thế giới của sân khấu, không chỉ như một khán giả[58]. Năm 1963, Lưu Quang Vũ đã thử viết một kịch bản ngắnTrên sân ga, vở kịch đã có những nét của phong cách kịch Lưu Quang Vũ sau này ít nhân vật; không gian, tình huống quan trọng hơn xung đột; cái kết lửng lơ cho niềm hy vọng; điểm nhấn là vẻ đẹp của những cái thoáng qua, một lần thành mãi mãi; không khí buồn man mác và cảm thức về mùa rất rõ. Năm 1980, Lưu Quang Vũ có bài thơ Em có nghe, dự báo một chặng mới của đời mình. Đó là chặng đời huy hoàng với kịch và những bài thơ ấm áp của một tài năng được đón nhận dưới ánh mặt nền tảng tinh thần là tôn vinh những điều tự nhiên, sự hài hòa và ngợi ca cái đẹp, Lưu Quang Vũ không mặn mà lắm với xung đột và không say mê những tính cách quá phức tạp. Trong khi phê phán trực diện những hiện tượng tiêu cực trong xã hội Việt Nam thời hậu chiến, kịch Lưu Quang Vũ thổi vào lòng người xem một niềm hy vọng về khả năng biến cải môi trường của con người. Được xây dựng trên những không gian gọn, những tình huống nhanh, những nhân vật không quá ác, thế mạnh của kịch Lưu Quang Vũ là chủ đề, ngôn ngữ đối thoại, chất thơ và sự hòa quyện giữa tính xã hội và tính văn chủ đề của kịch Lưu Quang Vũ là những gì? Là hệ quả của cơ chế bao cấp Tôi và chúng ta, Nếu anh không đốt lửa; là bi kịch của sự chắp vá, kết hợp phi tự nhiên, là độ chênh giữa lý tưởng/ lý thuyết và thực tại/ hiện thực, là sự phân ly giữa tâm và thân, là sự đối lập giữa duy tâm và duy vật Hồn Trương Ba da hàng thịt[59]; là sự thất bại về ảo tưởng tạo ra những con người máy theo ý mình Bông cúc xanh trên đầm lầy; là quyền làm người Quyền được hạnh phúc; là nạn cường hào ở nông thôn và hành động của người lính trẻ Lời thề thứ chín; là những oan sai đau đớn từ lỗ hổng trong quản lý xã hội Trái tim trong trắng; là nạn mua bán đề thi trong nhà trường, chạy theo thành tích Mùa hạ cuối cùng, Bệnh sĩ; là bước vấp của những người trẻ khi mới vào đời Tin ở hoa hồng; là niềm tin vào những giá trị thiêng liêng Điều không thể mất; là chọn lựa sáng suốt của những nhân vật lịch sử Ngọc Hân công chúa;… Quả thật, đó là những chủ đề có một tầm vóc lớn, kết tinh từ những suy tư dài về đất nước, dân tộc, con người, của Lưu Quang Vũ qua bao năm tháng, chúng góp phần lay tỉnh chúng ta, và dư vang của chúng sẽ còn lại rất ngữ đối thoại trong kịch Lưu Quang Vũ cực kỳ đa dạng nghiêm trang, xúc động, hài hước, châm biếm, cay đắng… gắn kết rất tự nhiên với từng vai nhân vật. Người lao động thì nói lên khát vọng bằng những cách diễn đạt mang tính hình tượng cụ thể, người lãnh đạo thì đúc kết hiện trạng bằng những lời súc tích, mang tính xác quyết. Đặc biệt, ở đấy tác giả để cho nhân vật quần chúng đối thoại cùng những nhân vật quan chức trong những tư thế rất là bình thơ tràn ngập trong kịch Lưu Quang Vũ[60], từ nhan đề cho đến không khí lạc quan, những nhân vật không thôi hy vọng và các quan hệ tình cảm đẹp đẽ. Chính yếu tố này đã làm cho các vở kịch của Lưu Quang Vũ, dù chuyển tải những thông điệp lớn về xã hội và con người, vẫn không tạo nên cảm giác nặng nề, gay gắt trong cảm hứng phê phán như nhiều tác phẩm đương thời. Cực kỳ nhạy bén với những bất ổn trong xã hội nhưng lại có một niềm tin chất ngất vào con người, bút pháp Lưu Quang Vũ thiên về xu hướng lãng mạn, nó lay tỉnh và thổi vào công chúng một ý thức công dân mạnh mẽ, một tâm thế tích cực trong mọi tình huống, một hy vọng vào tương lai và lẽ đời tốt Lưu Quang Vũ mang đến những thông điệp xã hội lớn, góp phần mở đầu cho một thời kỳ mới trong văn học Việt Nam. Luôn đứng giữa dòng, những tác phẩm của anh mang tính thời sự cao. Được xây dựng theo nguyên tắc thông tục, tính thời sự này dễ dàng nhận được sự cộng hưởng của công chúng và gây được hiệu ứng tức thì trong đời sống thực tiễn. Nhưng kịch Lưu Quang Vũ còn có một tầng vỉa khác, sâu xa hơn, đó là những thông điệp văn hóa. Tiếp tục thơ ca, anh tra vấn về tình thế của đất nước, về giá trị của cộng đồng, về lẽ sống của cá nhân, với những suy tư trong chiều kích của dân tộc và của nhân bản chất là tự nhiên. Mưa Lưu Quang Vũ, từ kết tinh tự nhiên của riêng anh, đã âm thầm, rồi bùng vỡ, tưới tắm một khoảng đời của văn học Việt. Những dòng thơ văn của Lưu Quang Vũ miên man miên man trong nỗi đau trộn lẫn niềm hy vọng về một cõi thế an hòa, cũng như mưa, dòng nối tiếp dòng, từ cao rơi xuống thấm nhuần trong đất. Dòng mưa Lưu Quang Vũ lắm khi buồn bã nhưng đó là nỗi buồn của sự tỉnh thức, nó có khả năng giúp chúng ta nhận ra sớm những điều phản lại con người, cũng như mưa thường mang lại những âm trầm nhưng mưa đã gội rửa đất trời, nuôi cây cối xanh tươi, giúp tâm hồn con người lắng mưa Lưu Quang Vũ đã mang lại cái nguồn ánh sáng của lẽ tự nhiên, của một vẻ đẹp tinh thần mà dân tộc Việt hàng ngàn năm dày công nuôi dưỡng, vậy mà có lúc dòng mưa ấy phải âm thầm, giấu giếm và sau đó bị xem như một lầm lỗi cần được bao dung. Nhưng phải chăng rồi cái tự nhiên sẽ phải trở về? Phải chăng sự có mặt của dòng mưa Lưu Quang Vũ nói với chúng ta là trong văn học Việt bao giờ cũng có những ngoại lệ, bao giờ cũng có tiếng nói lẻ loi tách khỏi bầy đàn? Và bầy đàn không phải bao giờ cũng đúng. Và cái tôi chính trị, cái tôi xã hội chỉ là một phần rất nhỏ trong mỗi người. Và đừng xem thường trực giác của người nghệ Quang Vũ là một trong số ít những nghệ sĩ Việt có khả năng vượt thoát và khả năng tiên cảm trong một hoàn cảnh xã hội đặc thù. Có thể nói, qua thơ, truyện ngắn và kịch, Lưu Quang Vũ đã đi đến cùng trong việc thực hiện tâm nguyện và quan niệm của một người nghệ sĩ dấn thân. Di sản mà Lưu Quang Vũ để lại cho chúng ta hôm nay cần được tiếp nhận và quảng bá một cách rộng rãi hơn. Kịch của anh đã bước ra thế giới và tạo được tiếng vang[61], nhưng còn thơ của anh? Tôi nghĩ, nếu được chuyển ngữ, chắc chắn thơ Lưu Quang Vũ sẽ góp vào ngôi nhà chung của nhân loại một nét đẹp mới đến từ xứ sở hình chữ S “bên bờ biển bão”[62].KỊCH BẢN SÂN KHẤU CỦA LƯU QUANG VŨKịch Dài1. Đôi bạn quê hương 19662. Sống mãi tuổi 17 19793. về đâu 19804. Mùa hạ cuối cùng 19815. Cô gái đội mũ nồi xám 19816. Người con gái trở về Trời xanh trên mái phố 19817. Những ngày đang sống 19818. Thủ phạm là ai? 19829. Cây ngọc lan của Huyền 198210. Nữ ký giả 198311. Dạ khúc tình yêu 198312. Nàng Sita 198113. Ngôi sao màu lá xanh Giòng máu trắng 198314. Hẹn ngày trở lại 198415. Nguồn sáng trong đời 198416. Bên sông Thu Bồn 198417. Tôi và chúng ta 198418. Người trong cõi nhớ 198219. Vách đá nóng bỏng 198320. Đường bay 198421. Hoa xuyến chi 198222. Hồn Trương Ba, da hàng thịt 198423. Người tốt nhà số 5 198424. Ngọc Hân công chúa 198425. Lời nói dối cuối cùng Cuội và Bờm 198526. Đất sống của người 198527. Vi khuẩn Han-Xen Hạnh phúc của người bất hạnh 198528. Đôi dòng sữa mẹ Hai giọt máu 198529. Ông vua hóa hổ 198530. Khoảnh khắc và vô tận 198631. Tin ở hoa hồng 198632. Nếu anh không đốt lửa 198633. Hoa cúc xanh trên đầm lầy34. Muối mặn của đời em35. Đam San36. Chết cho điều chưa có37. Quyền được hạnh phúc 198738. Đôi đũa Kim Giao39. Ông không phải bố tôi 198840. Linh hồn của đá41. Bênh sĩ 198842. Lời thề thứ chín43. Trái tim trong trắng Vụ án hai ngàn ngày 198844. Điều không thể mất 198845. Người bạn già 198446. Chim Sâm Cầm không chết 1988Kịch Ngắn47. Juliet không trẻ mãi48. Sống giả chết giả49. Con tò he50. Tẩy, bút chì và thước kẻ51. Ngọn gió vô hình52. Đoàn thanh tra tới53. Câu chuyện chiều cuối nămChú thích[1] Jean Chevalier - Alain Gheerbrant Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nhiều người dịch. Trường Viết văn Nguyễn Du & Nxb. Đà Nẵng, 1997, “Thôn Chu Hưng trăng sao rơi đầy giếng/ Nằm giữa bốn bề rừng rậm nứa lao xao/ Đường ven suối quả vả vàng chín rụng/ Cọ xanh rờn lấp loáng nước sông Thao”.[3] “Tôi đã có biển, có sông, nhưng con suối nhỏ vẫn là nơi yêu quý nhất” Lưu Quang Vũ Di cảo Lưu Quang Vũ, Lưu Khánh Thơ tuyển soạn. Nxb. Trẻ, 2018, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt Hương cây - Bếp lửa, Nxb. Văn học, H., 1968.[5]Áo, Thôn Chu Hưng, Phố Huyện,Mùa xuân lên núi, Phố ta, Lá bưởi, lá chanh, Mùa xoài chín…[6]Gửi tới các anh, Phủ Lý tháng Hai, Đêm hành quân, Những bông hoa không chết…[7] Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., những lúc, Những chữ…, Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn, Giấc mộng đêm, Nơi tận cùng, Những ngọn nến...[9] Nhật ký 29-5-1963 Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “lòng vẫn cứ buồn, nhìn lại lớp thấy chán quá!” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “mình không thể gò bó, nhất là phải giả dối và uốn mình nữa. Không! Tâm hồn mình không cho phép thế, thơ văn mình không cho phép thế” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Quang Vũ Di cảo, Sđd., ký 1964, 4-4 Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “Ta đã đau khổ vô cùng vì những trò của người đời”; “Ta thật là lạ và khác mọi người, chỉ vì một việc nhỏ cũng đủ làm cho ta đau đớn ghê gớm và chỉ vì một màu xanh của luống rau cũng có thể làm cho ta vui suốt cả ngày trời” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 85, 86.[16] “Đừng để những chuyện đốn mạt của phố phường Hà Nội che lấp tâm hồn mày đi” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Vũ Thị Khánh “Lưu Quang Vũ, cuộc đời và năm tháng”, trong Lưu Khánh Thơ biên soạn Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ…, Sđd., lớn lên cửa sổ thay màu …/ Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều/ Rách tan cả những làn sương đẹp phủ/ Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá/ Điều em tin là nhảm nhí mà thôi Gửi một người bạn gái. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, H., 2010, vội một đêm 1972, Em, Khâm Thiên, Cơn bão, Những đứa trẻ buồn,...[20] “thời bạo tàn lửa cháy khắp nơi/ những thây người gục ngã/ những nhịp cầu sụp đổ/những toa tàu rỗng không …/ thù hận mênh mông mặt đất bùn lầy” Em. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 247.[21] “khi người ta mặc cả máu người/ thay tình nghĩa như thay áo lót” Em I. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 278-282.[22] Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “đêm qua tôi đã chết/ với hàng ngàn mạng người/ từ than bụi tôi hiện hình trở lại/ mang đau thương đến trọn cuộc đời…Khâm Thiên. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “Bạn cùng làng mỗi đứa một phương/ Kẻ lính ngụy, người thành quân giải phóng” Mùa xoài chín. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “một bên là con trai Thanh Hóa, Thái Bình/ một bên là con những bà mẹ Thừa Thiên, Phan Thiết/ những sinh viên Sài Gòn/ những sĩ quan Đà Lạt/ những đội quân mang tên dã thú/ những tiểu đoàn không còn sót một ai/ những mô đất con đổi bằng mạng trăm người” Cơn bão. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 332.[26] “heo may cỏ lạnh rừng chiều/ ngàn lau rụng trắng/ những đứa trẻ buồn ướt lạnh/ đường dài mặt trận nối nhau đi …/ lòng chỉ muốn yêu thương/ mà cứ phải suốt đời căm giận”; “bên kia đồi gianh khét lẹt/ quân thù cháy giữa vòng vây/ mấy gã tù binh ngồi khóc/ run run những cánh tay gầy”; “nỗi buồn trĩu nặng/ dâng lên như đá trên mồ” Những đứa trẻ buồn. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 334-337.[27] “hãy quên chúng tôi đi/ để chúng tôi được yên lặng trở về/ để chúng tôi được hóa thành bụi đất/ thành mưa rào trên xứ sở yêu thương” Cơn bão. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 333.[28]Đất nước đàn bầu, Bài ca trên bán đảo, Sông Hồng, Sông Hồng - hồi ức của một nghĩa binh già, Sông Hồng - năm mẹ sinh em, Sông Hồng - lời từ giã của Trung đoàn Thủ đô,…[29]Đất nước đàn bầu. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi,Sđd., tr. 35-36.[30]Liên tưởng tháng Hai. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu, Sđd., “cùng làng chẳng nhận ra nhau/ thờ những vị thần xứ khác/ nghe lời kẻ ác/ súng đạn người bắn thịt xương ta/ đào huyệt hận thù/ chia miền cắt đất/ tin những chữ không hồn trong sách/ tìm kiếm mãi đâu xa/ nào hay mình có một làng quê”; “hôm nay tất cả hãy về/ lối cũ bờ đê/ những mắt bàng hoàng sau kính trắng/ những binh lính áo quần vằn vện/ những tướng già tóc bạc/ những kẻ lãng du những hồn uất hận/ anh em ruột thịt cầm tay/ lạy mẹ lạy thầy/ chúng con hư để thầy mẹ khổ/ từ nay chẳng tham lam mê muội nữa/ súng đạn người ném trả/ oán thùđổ xuống ao sâu”. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 350, 351.[32]Những đám mây ban sớm. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 357, 358.[33]Ngã tư tháng Chạp, Những tuổi thơ, Ghi vội một đêm1972,Viết lại một bài thơ Hà Nội, Những người bạn khuân vác, Việt Nam ơi. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., tr. 19-20, 24-25, 26-27, 28-31, 90-92.[34]Nói với mình và các bạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd., 104.[35] “Nhà văn xưa tôi yêu mến mê say/ Nay lão già được chính quyền sủng ái/Lưng còng xuống quên cả lời mình nói/Phản bội những điều trong cuốn sách thiêng liêng” Hoa Tigôn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd., “Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí/ Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau” Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd.,tr. 134.[37]Người báo hiệu. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., 257.[38]Liên tưởng tháng Hai. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., Lưu Quang Vũ 15 truyện ngắn, Lưu Quang Hiệp sưu tầm, thực hiện. Nxb. Hội Nhà văn, H., 1994.[40] “Cả một thế hệ nhiệt thành, cả một dân tộc nhiệt thành, như sóng biển dâng lên ào ạt. Nhưng sau đó khi sự nghiệp đã thành đạt, để đừng xảy ra những hỗn loạn lại là việc của cơ chế. Phải có pháp luật, đúng thế, phải có pháp luật nghiêm minh…” Những người bạn. Lưu Quang Vũ 15 truyện ngắn, Sđd., Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi,Sđd., tr. 56.[42]Mùa xuân lên núi, Chiều, Vườn trong phố, Em I, Cho Quỳnh những ngày xa.[43]Bài thơ khó hiểu về em, Chiều,Vườn trong phố.[44]Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa.[45]Từ biệt, Anh chẳng còn gì nữa…, Ngã tư tháng Chạp.[46] Qua những bài thơ Gửi Hiền mùa đông, Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I, II, III; Vẫn thơ tình viết về một người đàn bà không có tên; Không đề; Lá thu; Quả dưa vàng; Gửi; Em - tình yêu những năm đau xót và hy vọng…[47] Trong những bài thơ Ngọn lửa đen, Dù cỏ lãng quên, Phút em đến.[48]Chiều chuyển gió và Nửa đêm nỗi nhớ. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., 48.[49]Và anh tồn tại. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., “Em dạy anh cái nhìn thật của đời”, “Em dạy cho anh biết mơ ước biết tin” “Em trả lại cho anh hơi thở, dáng hình … Em giải thoát cho anh khỏi cô đơn lầm lỗi” Những ngày chưa có em….Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., tr. 100-101.[51] “Phút cuối cùngtay vẫn ở trong tay/ Ta đã có những ngày vui sướng nhất/ Đã uống cả men nồng và rượu chát/Đã đi qua cùng tận của con đường/ Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt” Bài hát ấy vẫn còn là dang dở…. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., Qua Nhà chật, Những ngày hè cuối, Một bài thơ.[53] Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., “Mọi người quanh ta mang nỗi khổ oằn vai/ Ngực đất nước tai ương xé rách/ Ta viết mãi những điều vô ích…/ Tôi không muốn viết những lời như thế …/ Tôi viết những bài thơ chống lại chính tôi/ Chống lại bóng đêm trì trệ của đời …/ Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật/ Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt/ Không cho ta lảng tránh/ Đập cửa mọi nhà/ Đứng ở mọi ngã ba” Nói với mình và các bạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi,Sđd., tr. 102, 103.[55]Những ngọn nến, Bài hát trong một cuốn phim cũ, Cuốn sách xếp nhầm trang, Chiều cuối, Cầu nguyện, Móng tay trên đá, Những chiếc lá rơi,Hoa cẩm chướng trong mưa.[56] Hoài Thanh “Một cây bút trẻ nhiều triển vọng”. Tạp chí Văn học, số 12, 12/1966, Lưu Quang Vũ Di cảo,Sđd., Năm 1963, trong nhật ký, anh ghi 1963 xem chèo đã thích. Xem kịch, nhận ra tình yêu và nhan sắc là hai cảm hứng lớn cho kịch Lưu Quang Vũ Di cảo,Sđd., Phạm Vĩnh Cư đã phân tích những tầng nghĩa, rất chi tiết và rất hay xem Phạm Vĩnh Cư “Lưu Quang Vũ, Bi hùng kịch và bi hài kịch”, trong Lưu Quang Vũ – Về tác gia và tác phẩm, Sđd., Lưu Quang Vũ đã nói lên điều này qua bài phỏng vấn “Chất thơ là linh hồn của kịch”, rất xác quyết và súc tích xem Lưu Quang Vũ – Về tác gia và tác phẩm, Sđd., Trương Ba, da hàng thịtdự liên hoan sân khấu Liên Xô, năm 1990, được đánh giá xuất sắc; năm 1998, diễn ở Mỹ; năm 2002 được dựng lại và công diễn ở Anh với tên "The Butcher's Skin".[62] Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi,Sđd., Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm TỰ SỰ Tác giả Lưu Quang Vũ Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh Dù người phàm tục hay kẻ tu hành Đều phải sống từ những điều rất nhỏ. Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm? Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng Nếu tất cả đường đời đều trơn láng Chắc gì ta đã nhận ra ta Ai trong đời cũng có thể tiến xa Nếu có khả năng tự mình đứng dậy. Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy Đâu chỉ dành cho một riêng ai. - Thủy Tiên sưu tầm.

tự sự lưu quang vũ